Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp - pdf 28

Download miễn phí Luận văn Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp



Ta thấy rằng, mặc dù, Trung Quốc đầu tư ra nước ngoài với quy mô còn nhỏ bé song cũng đạt được một số lợi ích
Một là phát hiện và tìm kiếm được nguồn thị trường mới đồng thời thúc đẩy hơn nữa việc xuất khẩu hàng hoá cũng như lao động trong nước ra nước ngoài. Bên cạnh việc tìm kiếm và mở rộng thị trường, phát triển các hoạt động ngoại thương, tăng cường xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, các công ty cũng ngày càng chú trọng đến các dịch vụ hậu mãi như bảo dưỡng, bảo hành, lắp đặt, hướng dẫn sử dụng giúp cho việc giữ vững các thị trường cũ và phát huy có hiệu quả cácthị trường mới. Trong quá trình đầu tư ra nước ngoài, có những doanh nghiệp do tránh sự bảo hộ thuế quan, phi thuế quan, đồng thời hạn chế nhập khẩu, đã triển khai xây dựng nhà máy ở nước thứ ba để tranh thủ giấy phép và hạn ngạch quota của nước này, thực hiện mục đích xuất khẩu của mình.
Hai là tận dụng được nguồn tài nguyên thiên nhiên của các nước mà Trung Quốc tiến hành đầu tư. Trung Quốc là một nước tuy rộng lớn nhưng nguồn tài nguên thì hạn hẹp, trữ lượng không cao do đó mà Trung Quốc phải nhập khẩu một khối lượng lớn để đảm bảo cho sản xuất trong nước.Chính vì điều đó mà Trung Quốc chú ý đến các nước có nhiều tài nguyên để tiến hành đầu tư, thành lập các doanh nghiệp từ đó khai thác nguồn tài nguyên ở các nước sở tại góp phần cung cấp ổn định nguồn nguyên liệu cho doanh nghiệp của mình và các doanh nghiệp khác trong nước.
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


đang phát triển như Việt Nam. Trong đó Trung Quốc là một đối tác cũng tương đối lớn đã đóng góp nhiều vào sự phát triển của Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư này đóng góp vào sự tăng lên của GDP, giúp vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên, tạo điều kiện cho quá trình chuyển giao công nghệ để cải thiện chất lượng hàng hoá tăng khả năng xuất khẩu, tạo thêm việc làm giảm thiểu thất nghiệp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng trao đổi quốc tế, đồng thời tiến tới công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Bảng 1.6: Đóng góp của khu vực FDI vào GDP
Đóng góp
của khu vực FDI
2001
2002
2003
2004
Tỷ trọng trong GDP (%)
13,1
13,9
14,3
14,8
Nộp ngân sách (triệu USD)
373
459
500
510
 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - MPI
Tỷ lệ đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong tổng sản phẩm quốc nội cũng tăng dần qua các năm. Năm 2001 đóng góp 373 triệu USD với tỷ trọng trong GDP là 13,1%; năm 2002 đóng góp 459 triệu USD với tỷ trọng trong GDP là 13,9%; năm 2003 đóng góp 500 triệu USD với tỷ trọng trong GDP là 14,3%; và năm 2004 đóng góp 510 triệu với tỷ trọng trong GDP là 14,8%. Như vậy giai đoạn 2001- 2004 khu vực kinh tế có vốn FDI đã đóng góp vào 18, 42 tỷ USD. Và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong đó có Trung Quốc vào Việt Nam đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, là nguồn bù đắp quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai, cải thiện cán cân thanh toán. Thông qua vốn FDI nhiều nguồn lực trong nước được đưa vào sử dụng, đồng thời Nhà nước cũng chủ động hơn trong bố trí cơ cấu đầu tư, dành nhiều vốn ngân sách cho kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Có thể nói đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo “ cú huých” từ bên ngoài, ban đầu mở đường cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam cùng vốn đầu tư của các nước khác cũng tạo điều kiện cho quá trình chuyển giao công nghệ, các nhà đầu tư chuyển những công nghệ tương đối hiện đại đến Việt Nam để tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh.Về chất lượng công nghệ đưa vào Việt Nam, nhìn chung, phần lớn các trang thiết bị là đồng bộ, có trình độ bằng hay cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và thuaộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khu vực. Một số thiết bị qua sử dụng đã được nâng cấp trước khi đưa vào Việt Nam. Điều này đã làm cho các sản phẩm tăng sức cạnh tranh trên thị trường Việt Nam do các mặt hàng phong phú hơn chát lượng của hàng hoá được cải thiện rất nhiều so với thơì kỳ chưa mở cửa. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam.
Một vấn đề quan trọng nữa là đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam cũng hình thành các doanh nghiệp mới từ đó góp phần giải quyết việc làm cho người lao động tăng thu nhập cho người dân (lương bình quân 80 – 85 USD/tháng cao hơn bình quân chung của các doanh nghiệp trong nước). Tính đến hết năm 2004, khu vực FDI nói chung đã tạo ra 800.000 lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp khác như xây dựng, cung ứng các dịch vụ liên quan. Nhiều lao động được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp thu kỹ năng, công nghệ tiên tiến, rèn luyên tác phong công nghiệp và thích ứng dần với cơ chế mới. Đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vực FDI ngày một trưởng thành và tích luỹ được kinh nghiệm quản lý.
Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam góp phần mở rộng kinh tế thương mại của Việt Nam và Trung Quốc. Với vị trí là các nước láng giềng của nhau, có những điều kiện về địa lý tương tự nhau tạo điều kiện cho hai nước hiểu nhau hơn đồng thời thêm yếu tố đầu tư càng thúc đẩy mạnh mối quan hệ này. Việt Nam có thể mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá sang Trung Quốc tức là dù trực tiếp hay gián tiếp thì qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản phẩm của Việt nam có điều kiện xâm nhập vào thị trường đông dân nhất thế giới của Trung Quốc thúc đẩy tăng trưởng trong nước và ngược lại sản phẩm của Trung Quốc cũng xâm nhập vào Việt Nam để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, do đó đảm bảo nguồn nguyên vật liệu với giá cả phải chăng. Điều đó chứng tỏ rằng đầu tư trực tiếp và ngoại thương có quan hệ tác động hỗ tương.
Đầu tư tạo điều kiện thay đổi bộ mặt đất nước và nâng cấp cơ sở hạ tầng. Bởi vì, khi muốn thu hút đầu tư thì Chính phủ phải có chiến lược đổi mới, xây dựng thêm cơ sở hạ tầng: giao thông vận tải, nhà cửa, Thêm và đó, Trung Quốc còn tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu chế suất điển hình là khu chế xuất Linh Trung ở TP Hồ Chí Minh. Nhờ các dự án mà Việt Nam mới có cơ hội sớm được tiếp nhận nhiều cái mới về cải thiện cơ sở hạ tầng, cùng với nó là sự xuất hiện của nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, tạo môi trường và điều kiện tốt để các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư, từ đó tạo khả năng mở rộng xuất khẩu, thông qua các khu chế xuất, khu công nghiệp.
4.2. Những tồn tại
Bên cạnh những ưu điểm đạt được do nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và nguồn vốn đầu tư trực tiếp của Trung Quốc nói riêng vào Việt Nam thì vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Điều đó sẽ gây khó khăn cho việc xây dựng một chính sách phù hợp, có thể bỏ lỡ các dự án đầu tư, tạo môi trường đầu tư kém thu hút. Với thực trạng hiện nay, nguồn vốn của Trung Quốc vào Việt Nam còn ít so với tiềm lực của Trung Quốc và mối quan hệ của hai bên do đó xác định được những tồn tại để có biện pháp khắc phù một cách hợp lý. Trong những năm qua, các nhà đầu tư của Trung Quốc đến Việt Nam đầu tư trực tiếp, tuyệt đại đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiền vốn có hạn, kỹ thuật và công nghệ sản xuất chưa thật tiên tiến và hiện đại, do đó sức cạnh tranh yếu, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn. Đến nay, chưa thấy xuất hiện tại Việt Nam những dự án đầu tư trực tiếp quy mô tương đối lớn của các công ty và tập đoàn kinh tế lớn của Trung Quốc.
Cơ cấu đầu tư tuy đã có nhiều cải tiến tích cực, nhưng vẫn còn nhiều điều bất hợp lý, hiệu quả kinh tế – xã hội của khu vực đầu tư này chưa cao. Trung Quốc chủ yếu đầu tư khai thác các ngành công nghiệp nói chung đặc biệt là công nghiệp nặng trong khi đó ngành nông lâm nghiệp mặc dù có nhiều ưu đãi, lại có nhiều tiềm năng nhưng nguồn vốn cho khu vực này thấp. Chính vì vậy gây ra sự mất cân đối trong phát triển các ngành kinh tế, không tạo được hiệu quả cao trong đầu tư.
Thêm vào đó vốn đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào các địa phương có điều kiện thuận lợi như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, trong khi đó vốn đầu tư vào các địa bàn có điều kiện khó khăn thì hạn hẹp, làm cho chênh lệch kinh tế - xã hội giữa các vùng ngày càng lớn. Từ đó gây ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trong việc thu hút FDI của các địa phương khiến cho các dự án đầu tư kém hiệu quả do chỉ tập trung thu hút mà thực hiện thì yếu kém.
Hệ thống pháp luật, chính sách đang trong quá trình hoàn thiện nên thiếu tính đồng bộ, ổn định, chưa đảm bảo tính rõ ràng và đoán trước được gây khó khăn cho nhà đầu tư trong triển khai dự án. Công tác quản lý Nhà nước còn yếu nhiều mặt, vừa buông lỏng lại vừa can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp (quá tâp trung vào khâu cấp giấy phép đầu tư, buông lỏng khâu quản lý sau cấp giấy phép nên không nắm chắc được tình hình, kết quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI).
Chất lượng lao động Việt Nam còn yếu kém. Một số cán bộ được cử vào làm việc trong liên doanh thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững luật pháp, không thành thạo ngoại ngữ. Đội ngũ lao động còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp về lao động có trình độ tay nghề cao, kỷ luật kém, năng suất lao động thấp, do đó thế mạnh của chúng ta về lao động bị suy yếu dần.
Bên cạnh đó, còn nhiều hạn chế trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ: có những công nghệ chuyển giao đã cũ kỹ, lạc hậu, hoạt động kém hiệu quả; công nghệ chuyển giao không đồng bộ và định giá không đúng. Từ đó dẫn đến sản phẩm làm ra có tính cạnh tranh chưa cao và còn gây ô nhiễm môi trường.
Chi phí đầu tư ở Việt Nam cao hơn một số nước khác trong khu vực, như: giá điện ở Việt Nam cao hơn gấp 2 lần tại Bangkok – Thái Lan, lương công nhân Việt Nam cao gấp 1,6 lần tại Jakata – Indonexia và thuế thu nhập cá nhân cao hơn cả Thượng Hải.
4.3. Nguyên nhân
Lượng vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam còn ít do Trung Quốc vẫn đang trên đà phát triển, thiếu vốn (Trung Quốc có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài rất mạnh mẽ), lại đâng tiến hành xây dựng “Bốn hiện đại hoá” trên quy mô lớn cần thu hút nhiều đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Những lĩnh vực mà phía Việt nam muốn thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nhưng ở Trung Quốc, những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh đó vẫn đang cần đầu tư và có nhiều triển vọng phát triển, cho nên các doanh nghiệp Trung Quốc chưa có nhu cầu cấp bách đầu tư ra nước ngoài trong đó có Việt Nam.
Do nhận thức về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa thông suốt, nhất quán; một mặt do chúng ta đang thiếu vốn trầm trọng nên một mặt, muốn khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng đất nước; mặt khác, lại s...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status