Vai trò của đầu tư trong việc thức đẩy kinh tế - pdf 19

Download miễn phí Đề tài Vai trò của đầu tư trong việc thức đẩy kinh tế



Về mặt lịch sử giai đoạn này bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử quan trọng là Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VI (khoá IV) tháng 9 năm 1979. Về mặt logic, giai đoạn này bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra những mối quan hệ vừa tự chủ, vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Nội dung trên được thực hiện với những giải pháp chủ yếu sau đây:
+ Một là hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá tiền tệ.
+ Hai là đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm mở rộng thị trường.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề hết sức mới mẻ và tất nhiên định nghĩa này đòi hỏi phải loại trừ thành kiến"Thị trường là
chủ nghĩa tư bản","kế hoạch là chủ nghĩa xã hội" và các quan điểm cùng loại. Để hiểu rõ về
nền kinh tế thị trường của Việt Nam ta cần làm rõ một số vấn đề sau:
*Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa?
Khi chuyển sang kinh tế thị trường chúng ta đứng trước một thực trạng là đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội còn rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
- Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc:
+ Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa đủ khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế.
+ Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Hiện tượng độc canh cây lúa vẫn còn tồn tại, ngành nghề chưa phát triển. Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng cho đến nay tuy cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn chưa thành được một cơ cấu mới hợp lí
+ Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nước ta đã được hình thành và đang phát triển vì vậy thị trường ở nước ta cũng đang được hình thành và phát triển. Tuy nhiên thị trường ở nước ta còn ở trình độ thấp, tính chất của nó còn hoang sơ, dung lượng còn thiếu và có phần rối loạn, chúng ta mới từng bước có thị trường hàng hoá nói chung. Về cơ bản nước ta còn chưa có thị trường sức lao động. Chúng ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn, hay mới có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh với quan hệ vay, trả, mua, bán còn thô sơ. Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn sử dụng lãi suất, tỉ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nước quy định. Chưa có lãi suất, tỉ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường.
Thực trạng trên đây của nước ta là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau. Về mặt khách quan đó là do trình độ phát triển của phân công lao động xã hội còn thấp. Nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc. Về mặt chủ quan là do nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tư do. Một thời gian khá dài đã tồn tại quan niệm cho rằng những tư liệu sản xuất lưu chuyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hoá đặc biệt, nó không được mua bán tự do vì chúng có vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu chúng rơi vào tay tư nhân nó sẽ trở thành những phương tiện nô dịch lao động của người khác. Sức lao động tiền vốn cũng được quan niệm không phải là hàng hoá...Mặt khác do quản lí theo chiều dọc- theo chức năng kinh doanh của từng ngành một cách máy móc cho nên đã dẫn tới hiện tượng cửa quyền, cắt đứt mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành.
+ Năng suất lao động và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp
Do trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ còn thấp, kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất
và dịch vụ xã hội còn kém, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong nước còn chưa phát triển...cho nên năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân tính theo đầu người ở
nước ta tất yếu vẫn còn rất thấp. Tình hình này được phản ánh qua các số liệu sau
Theo giá hiện hành( tỷ đồng)
1988
1989
1990
1991
1992
GNP
13,266
2,308
38,167
69,959
101,87
Tổng đầu tư (I)
1,906
2,817
4,796
-
-
Tiêu dùng (C)
13,291
24,358
38,177
66,61
94,883
Tiết kiệm (S)
-25
-50
-10
3,349
6,987
Qua số liệu trên đây ta thấy: do năng suất lao động còn thấp nên mức tiêu dùng xã hội từ năm 1988 đến năm 1990 đều lớn hơn mức GDP hàng năm, do vậy không có tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế trong nước, tiết kiệm đều là số âm. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng thế giới năm 1991 thì thu nhập quốc dân theo đầu người của nước ta so với các nước đang phát triển ở Châu á thì vào loại thấp nhất Việt Nam: 200USD/người, trong khi GDP/người năm 1990 của Trung Quốc là 370USD, Indonexia là 570USD, ấn Độ là 350USD, Philippin là 730USD, Thái Lan là 1420USD, Malaixia là 2320USD, Nam Triều Tiên là 5400USD
- ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà trong nhiều thập kỉ qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm cũng như những tác động tiêu cực của nó đến nền kinh tế nước ta, nó gần như đối lập với nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường.
*Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn nếu thiếu " đòn xeo" là kinh tế hàng hoá. Chính Mac đã coi sự phát triển của kinh tế hàng hoá là xuất phát điểm và là điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được đối với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Nội chiến kết thúc, Lenin cũng chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới (NEP). Về thực chất đó là sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động cuả nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường.
- Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có sự khác biệt với các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ), những nước này đã có nền kinh tế phát triển, nền kinh tế đã được cơ khí hoá, không có tính tự nhiên tự cấp tự túc như nước ta, vì vậy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường nước ta trước hết là quá trình chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mặt khác, nền kinh tế nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế này đã được phân tích ở phần trên, nó gần như đối lập với thị trường cũng như cơ chế thị trường. Thị trường được coi là trung tâm của quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội, vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
- Qu
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status