Chính sách lãi suất của Việt Nam trong giai đoạn hiên nay - pdf 18

Download miễn phí Đề tài Chính sách lãi suất của Việt Nam trong giai đoạn hiên nay



Luật ngân hàng Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực từ ngày 01/10/1998. Tại điều 18 luật này đã quy định: “ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn” nhưng mãi đến ngày 02/08/2000 ngân hàng Nhà nước mới công bố và điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản. Vậy lãi suất cơ bản là gì, nó có thích hợp với nước ta hay không và việc điều hành nó như thế nào? Nội dung này ta có thể xem xét cụ thể dựa trên một số khía cạnh sau:



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

soát được. Rủi ro môi trương bên ngoài không thể bị loại trừ bởi việc đa dạng hoá nên còn gọi chung là “ rủi ro không thể đa dạng”. Các rủi ro này thường tạo ra các tác động khác nhau đến hoạt động doanh nghiệp và trường hợp xấu nhất chúng có thể dẫn đến phá sản. Trên thị trường tài chính “ rủi ro không thể đa dạng” được định giá trong cơ cấu lãi suất và được gọi là “ lệ phí rủi ro thị trường”.
Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, sự thay đổi tương quan giữa lãi suất tiền gửi với lãi suất tiền vay gọi là “ rủi ro lãi suất”. Trường hợp kỳ hạn tiền gửi không đổi, vốn huy động không đổi, nhưng cho vay thấp hơn trước hay trường hợp lãi suất không đổi, vốn huy động không đổi nhưng tiền vay với thời hạn dài hơn trước đều dẫn đến rủi ro vỡ nợ hay rủi ro thiếu vốn khả dụng cao. Do vậy rủi ro thị trường đều được định giá trong cơ cấu lãi suất đưa ra.
Tóm lại, nhân tố thời gian, nhân tố rủi ro là hai nhân tố chủ yếu tác động đến quyết định lãi suất của mỗi ngân hàng. Khi ngân hàng cho vay, ngân hàng chịu cả hai thiệt thòi: thiệt thòi về mặt thời gian do nhường quyền sử dụng tiền trong thời gian nhất định và thiệt thòi do chấp nhân rủi ro trong thời gian đó. Do đó phần lãi suất phải bao gồm giá trị thời gian và lệ phí rui ro.
6. Thị trường vốn quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, vốn được luân chuyển trên phạm vi quốc tế. Vì vậy lãi suất trên thị trường tiền tệ của mỗi quốc gia cũng chịu tác động của thị trường khu vực và thế giới. Trước hết thị trường vốn quốc tế quyết định lãi suất thực quốc tế. Sau đó lãi suất thực quốc tế lại ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất thực tại các nước theo từng qui mô của nền kinh tế mở.
- Dưới nền kinh tế nhỏ: lãi suất thực nội địa phải cao hơn lãi suất thực thế giới nếu mốn thu hút đầu tư quốc tế và ngăn cản người gửi tiết kiệm trong nước đầu tư vốn ra nước ngoài.
- Dưới nền kinh tế hùng mạnh: mức độ ảnh hưởng lãi suất quốc tế đến lãi suất thực trong nước đôi khi không lớn bằng tác động ngược lại của sự thay đổi lãi suất do tiết kiệm và đầu tư nước đó biến động đến lãi suất thực của thế giới.
III- Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
1. Lãi suất với quá trình huy động vốn
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần có vốn và thời gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công nghiệp và quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất, tiêu dùng. Đối với Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng trọng chiến lược CNH – HĐH đất nước.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý bảo đảm nguyên tắc quy định: lãi suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, bảo đảm tích luỹ cho cả người cho vay và người đi vay. Cụ thể:
+ Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất tiền gửi < Lãi suất tiền vay < Tỷ suất lợi nhuận bình quân
+ Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay).
2. Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của các doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư và ngược lại. Trong môi trường kinh tế hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chỉ tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất bởi vì ngoài đầu tư vào mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần hạ lãi suất vì nguyên tắc là: lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.
3. Lãi suất – vai trò của nó đối với hoạt động ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại với hai hoạt động chính trong hoạt động kinh doanh cảu mình là huy động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh qui mô hoạt động của các ngân hàng thương mại. Với phương châm đi vay để cho vay, ngân hàng huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả, ngân hàng thương mại phải xác định mức lãi suất tiền và lãi suất tiền vay một cách hợp lý. Có như vậy mới thu hút được nguồn vốn to lớn trong nước đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống. Lãi suất ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại và khách hàng.
Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, vừa là công cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại.
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng, ngân hàng vừa là chủ nợ, vừa là khách nợ. Khi cho vay vốn ngân hàng thương mại đóng vai trò chủ nợ đối với khách hàng vay vốn, còn khi nhận tiền gửi thì ngân hàng lại là khách nợ. Nếu lãi suất huy động tiền gửi quá thấp không hấp dẫn thi không khuyến khích các doanh nghiệp và dân cư gửi tiền, dẫn đến tình trạng thiếu vốn cho vay. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không còn lãi hay lãi quá thấp thì họ sẽ thu hẹp sản xuất để gủi tiết kiểm hưởng lãi suất cao. Lúc đó trong ngân hàng sẽ gặp tình trạng dư tiết kiệm, không cho vay được và trở thành con nợ thực sự của các chủ sở hữu, vì vậy có nguy cơ phá sản.
Vì nhưng yếu tố quan trọng đó mà ngân hàng trung ương phải xác định hay kiểm soát lãi suất của các ngân hàng thương mại. Nhằm bảo vệ chính ngân hàng thương mại và lợi ích của người gửi tiền. Lãi suất ngân hàng hợp lý thực sự là đòn bẩy mạnh mẽ cho nền kinh tế phát triển.
Chương II : Thực trạng điều hành lãi suất Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
Có thể nói trước năm 1986 ở nước ta chưa tồn tại một chính sách lãi suất theo đúng nghĩa của nó. Một biểu lãi suất được qui định rất chi tiết đối với tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền cho vay, ban hành kèm theo quyết định 85/QĐ-NH ngày 26/10/1982 được áp dụng trong suốt giai đoạn này. Chính sách lãi suất là việc áp dụng gần như nguyên mẫu mô hình của Liên Xô (cũ). Nhiều mức lãi suất của ta tồn tại ổn định qua nhiều năm, điều này dường như rất phi lý, nhưng lại rất logic trong điều kiện kinh tế-xã hội bấy giờ. Trong một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ, Nhà nước bao cấp...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status