Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân



MỤC LỤC
Lời mở đầu 2
Chương 1 Khái quát Doanh nghiệp tư nhân 3
1.1/ Khái niệm về doanh nghiệp tư nhân 3
1.2/ Các đặc điểm cơ bản 3
1.2.1/ Chế độ vốn tài chính 4
1.2.2/ Quản lý doanh nghiệp tư nhân 5
Chương 2 Quy định của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân 6
2.1/ Đặc điểm pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân 6
2.1.1/Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ 6
2.1.2/ Doanh nghiệp tư nhân tư nhân không có tư cách pháp nhân 7
2.1.3/ Trách nhiệm với các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân 8
2.2/ Quy chế hình thành và chấm dứt hoạt động của
Doanh nghiệp tư nhân 8
2.2.1/Đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân 8
2.2.2/Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân 10
2.3/ Quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp tư nhân 12
2.3.1/ Quyền của doanh nghiệp tư nhân 12
2.3.2/ Nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân 16
Kết luận 18
Tài liệu tham khảo 19

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam đòi hỏi phải có một bộ khung Luật kinh tế hoàn chình. Trong đó pháp luật về doanh nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên,ở nước ta quá trình công nhận hình thức sở hữu tư nhân chiếm một thời gian khá dài trong tương quan so sánh với quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy, sự ra đời của các doanh nghiệp thay mặt cho hình thức sỡ hữu này khá muộn so với các hình thức doanh nghiệp thay mặt cho các hình thức sở hữu khác.
Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình kinh tế tư nhân, là một trong những thành phần kinh tế của nền kinh tế thị trường. Nhà nước khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho loại hình doanh nghiệp này hoạt động.
Với sự quan tâm đặc biệt và các biện pháp hỗ trợ như hiện nay của Nhà nước với hình thức doanh nghiệp tư nhân thì loại hình này đã có những bước phát triển nhanh chóng về quy mô và số lượng. Năm 2000 nước ta có số lượng doanh nghiệp tư nhân là 14 842 doanh nghiệp, và đến tháng 6 năm 2010 thì nước ta đã có 501 900 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên cả nước, với nhiều quy mô khác nhau. Đóng góp một phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế của đất nước.
Hiện tại, tuy loại hình này cũng đã khá phổ biến tại Việt Nam nhưng Luật Doanh nghiệp 2005 đã có những đổi mới so với Luật Doanh nghiệp 1999 để tạo điều kiện phát triển cho doanh nghiệp tư nhân phát triển hơn nữa trong tương lai. Để hiểu rõ hơn về loại hình doanh nghiệp này, nhóm sinh viên lớp CĐTN11QN chúng tui đã chọn đề tài: “Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân”.
Bài tiểu luận là một cái nhìn tổng quan về địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân, bài tiểu luận được chia thành 2 chương:
- Chương 1 : Khái quát Doanh nghiệp tư nhân.
- Chương 2 : Quy định của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu đề tài, song do thời gian có hạn và sự thiếu hiểu biết về lĩnh vực luật pháp của Nhà nước nên bài tiểu luận không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Thầy giáo và các bạn để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành Thank TS. Nguyễn Nam Hà đã tận hướng dẫn và giúp đỡ chúng em trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Nhóm sinh viên.

Chương 1
Khái quát Doanh nghiệp tư nhân

1.1/ Khái niệm doanh nghiệp tư nhân.
Ngày 29/11/2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật doanh nghiệp 2005 thay thế cho Luật doanh nghiệp 1999. Luật doanh nghiệp 2005 ra thể hiện sự thống nhất trong việc điều chỉnh địa vị pháp lý của các doanh nghiệp ở Việt Nam, điều này một lần nữa khẳng định vị trí, vai trò của doanh nghiệp tư nhân bên cạnh các loại hình doanh nghiệp khác.
Để làm rõ các khía cạnh pháp lý cơ bản của doanh nghiệp tư nhân, Khoản 1 Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2005 đã định nghĩa doanh nghiệp tư nhân như sau : “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”.
Và doanh nghiệp tư nhân là “ tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”( Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005).
1.2/ Các đặc điểm cơ bản.
Từ định nghĩa trên có thể thấy trách nhiệm của chủ doanh nghiệp tư nhân là vô hạn và chỉ có thể là do một cá nhân làm chủ sở hữu duy nhất. Chủ doanh nghiệp cũng chính là người thay mặt theo pháp luật của doanh nghiệp.
Theo định nghĩa này thì doanh nghiệp tư nhân có các đặc điểm cơ bản sau:
- Doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh;
- Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ;
- Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân và không được phát hành chứng khoán.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Theo quy định chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của doanh nghiệp. Xét về mặt pháp lý đây là đặc điểm rất quan trọng của doanh nghiệp tư nhân.

Khi doanh nghiệp tư nhân có nợ nần thì chủ doanh nghiệp phải đem toàn bộ tài sản của mình(không phân biệt là tài sản riêng hay tài sản của doanh nghiệp) để trả cho các chủ nợ.
Chế độ trách nhiệm tài sản này của doanh nghiệp tư nhân khác với công ty. Khi công ty có các khoản nợ thì bản thân các thành viên chịu trách nhiệm bằng phần vốn đã góp vào công ty chứ không chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mình.
Quan hệ nợ nần của công ty là quan hệ công ty với (các) chủ nợ chứ không phải là quan hệ của các thành viên với chủ nợ.
Ngược lại, quan hệ nợ nần của doanh nghiệp tư nhân là quan hệ chủ doanh nghiệp và (các) chủ nợ, không phải chỉ có doanh nghiệp và chủ nợ.
Chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân là một ưu thế mà doanh nghiệp này có thể dễ dàng vay các khoản tín dụng lớn từ ngân hàng.
Khi cung cấp tín dụng, ngân hàng có thể căn cứ vào toàn bộ tài sản của chủ doanh nghiệp chứ không phải chỉ căn cứ vào tài sản của doanh nghiệp.
Toàn bộ tài sản của chủ doanh nghiệp là một bảo đảm chắc cho việc thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp.
Chế độ trách nhiệm vô hạn cũng có những điểm đáng lưu ý sau:
Thứ nhất, trách nhiệm của người điều hành doanh nghiệp trong quan hệ với chủ doanh nghiệp trong trường hợp chủ doanh nghiệp không phải là người điều hành doanh nghiệp.
Trách nhiệm này được giải quyết trên cơ sở hợp đồng của chủ doanh nghiệp với người điều hành doanh nghiệp và các quy định trong pháp luật hợp đồng.
Thứ hai, vấn đề tài sản của vợ chồng. Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, vợ chồng có tài sản riêng. Các tài sản riêng của vợ(hay của chồng) không phải là tài sản của chủ doanh nghiệp và không đem ra thanh toán nợ của chủ doanh nghiệp.
Thứ ba, chế độ trách nhiệm vô hạn cũng có nhược điểm làm cho các chủ doanh nghiệp tư nhân không dám đầu tư vào những lĩnh vực, khu vực có nhiều rủi ro cao. Điều đó có thể dẫn đến sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế và có những nhu cầu của xã hội không được đáp ứng.
1.2.1/ Chế độ vốn tài chính.
Các vấn đề này được quy định tại Điều 142 Luật doanh nghiệp 2005.
- Vốn đầu tư của doanh nghiệp do chủ doanh nghiệp tự khai, Chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ khai báo chính xác tổng số vốn đầu tư.
- Toàn bộ vốn và tài sản, kể cả vốn vay và tài sản thuê, được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
- Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng, giảm vốn đầu tư.
Việc tăng hay giảm vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán. Trường hợp giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đầu tư đã đăng ký, thì chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ được giảm vốn sau khi đã khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh.

1.2.2/ Quản lý doanh nghiệp tư nhân.
Các vấn đề này được quy định tại Điều 143 Luật doanh nghiệp 2005.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân là thay mặt theo pháp luật của doanh nghiệp.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan trước Trọng tài hay Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hay thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh.
Trường hợp thuê người khác làm giám đốc quản lý doanh nghiệp, thì chủ doanh nghiệp tư nhân phải khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh và vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.


dYi8AGiUFNf8I44
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status