Tiểu luận Hiến pháp 1992 - Đạo luật cơ bản của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Hiến pháp 1992 - Đạo luật cơ bản của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam



MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Phần nội dung
I. Khái niệm. 2
II. Hiến pháp 1992 – đạo luật cơ bản 3
Phần kết luận 8
Danh mục tài liệu 10
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39752/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

sắc. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1992.
Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản hiến pháp mới ra đời, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra một thời kỳ mới ở nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó để có những nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng và văn minh. Với tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, Quốc hội khóa 8, tại kì họp thứ 3 ngày 22/12/1988 đã ra Nghị quyết sửa đổi lời nói đầu của Hiến pháp 1980. Ngày 30/6/1989, kì họp thứ 5, Quốc hội khóa 8 lại ra Nghị quyết sửa đổi 7 điều: 57,116,118,122,123,125 để xác định them quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND của công dân và thành lập thêm thường trực HĐND trong cơ cấu HĐND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của HĐND và UBND. Trong kì họp này Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện đáp ứng yêu cầu của tình hình kinh tế, xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Ủy ban sửa đổi hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người, do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công là Chủ tịch. Ủy ban dự thảo hiến pháp đã họp nhiều phiên để chỉnh lý, bổ sung và thông qua toàn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Cuối năm 1991 đầu năm 1992 Bản dự thảo Hiến pháp lần ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân và ý kiến của Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương Đảng, Dự thảo Hiến pháp lần 4 đã hoàn thành và được trình lên Quốc hội khóa VIII, tại kì họp thứ XI xem xét. Sau nhiều ngày xem xét, thảo luận sôi nổi với những chỉnh lý và bổ sung nhất định, ngày 15 tháng 4 năm 1992 Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Việc soạn thảo và đưa ra Hiến pháp năm 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Bản Hiến pháp này là bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đúng như nhận xét của đồng chí Tổng bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, nó là “sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước”.
II. Hiến pháp 1992 – đạo luật cơ bản của nước CHXHCN Việt Nam.
Tính chất luật cơ bản của Hiến pháp 1992 trong nhà nước XHCN Việt Nam thể hiện trên nhiều phương diện.
1. Khái niệm “Đạo luật cơ bản”.
Đạo luật (luật theo nghĩa hẹp) là một văn bản pháp luật do cơ quan lập pháp biểu quyết và thông qua. Luật thường được chia theo 2 đặc tính cơ bản: Luật cưỡng bức có tính bắt buộc với người thuộc đối tượng của luật đó hay luật bổ trợ cho 1 luật khác. (Các loại luật: luật hiến pháp, luật sửa đổi và bổ sung, luật tổ chức, luật dân sự, luật hình sự.....).
Đạo luật cơ bản là văn bản pháp luật có tính pháp lý cao nhất trong Nhà nước. Nó điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cơ bản trong xã hội với phạm vi đối tượng điều chỉnh là rất rộng, lien quan đến nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Tuy nhiên, đúng như bản thân hai chữ “cơ bản” nên đạo luật cơ bản có đối tượng điều chỉnh rộng không có nghĩa là điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực của cuộc sống nhà nước và xã hội. Ngược lại, các đạo luật cơ bản chỉ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội có bản nhất, quan trọng nhất mà những quan hệ đó tạo thành nền tảng của chế độ nhà nước và xã hội, có liên quan tới việc thực hiện quyền lực nhà nước. Chúng ta có thể khẳng định Hiến pháp 1992 là một đạo luật cơ bản.
2. Hiến pháp 1992 – đạo luật cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
a. Trước hết, có thể thấy, Hiến pháp 1992 là văn bản duy nhất quy định tổ chức quyền lực nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển, hiến pháp 1992 là văn bản, là phương tiện pháp lý thể hiện tư tưởng của Đảng cộng sản dưới hình thức những quy phạm pháp luật.
Ví dụ: Điều 2, chương I của Hiến pháp 1992 có viết: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hôi chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là lien minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiên các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.”
Điều 4, chương I của Hiến pháp 1992 có viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Nội dung điều luật trên đã khẳng định được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội. Hiến pháp 1992 đã phần nào phản ánh được những quy luật khách quan, hững ý chí, nguyện vọng, quyền và lợi ích của nhân dân, phát huy được hiệu quả của pháp luật đối với các mối quan hệ xã hội.
b.Xét về mặt nội dung.
Xét trên phương diện nội dung, nếu các luật khác thường chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống; chẳng hạn luật hôn nhân và gia đình, luật đất đai, luật lao động… thì đối tượng điều chỉnh của hiến pháp rất rộng, có tính chất bao quát trên mọi lĩnh vực cuả sinh hoạt xã hội. Đó là những quan hệ giữa công dân, xã hội với Nhà nước và là quan hệ cơ bản xác định chế độ nhà nước.
Trong lĩnh vực chính trị: Luật Hiến pháp 1992 điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản sau: các quan hệ xã hội liên quan đến việc xác định nguồn gốc của quyền lực nhà nước, các hình thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước; các quan hệ xã hội xác định mối quan hệ giữa Nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận; các quan hệ xã hội quyết định chính sách đối nội, đối ngoại của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam… Những quan hệ này trên cơ sở để xác định chế độ chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Vi...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status