Tiểu luận Phân tích và đánh giá các quy định về quyền chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động, kèm tình huống - pdf 13

Download Tiểu luận Phân tích và đánh giá các quy định về quyền chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động, kèm tình huống miễn phí



Nhìn chung những quy định của pháp luật về quyền chấm dứt hợp đồng lao động đã đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi tham gia quan hệ lao động.Tuy nhiên những quy định pháp luật nhìn từ thực tế kể cả BLLĐ và văn bản hướng dẫn bổ sung vẫn chưa quy định rõ một số vấn đề đã nêu ở trên,có quy định chưa thỏa đáng,và chưa đầy đủ,vẫn có những lỗ hổng mà pháp luật cần xem xét điều chỉnh.Do vậy pháp luật lao động nói chung và pháp luật về quyền chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động nói riêng cần tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện hơn cho phù hợp với tình hình thực tế,đảm bảo quyền và lợi ích của các bên một cách phù hợp.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37905/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

hợp đồng lao động đối với từng loại hợp đồng cụ thể là hợp đồng lao động xác định thời hạn,và hợp đồng lao động không xác định thời hạn.
1.1Đối với người lao động làm việc theo hợp đồng xác định thời hạn từ một năm đến ba năm,hợp đồng lao động theo mùa vụ hay theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới một năm thì theo khoản 1 điều 37 BLLĐ có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong 7 trường hợp sau:
“a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hay không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thoả thuận trong hợp đồng;
b) Không được trả công đầy đủ hay trả công không đúng thời hạn theo hợp đồng;
c) Bị ngược đãi; bị cưỡng bức lao động;
d) Bản thân hay gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ quan dân cử hay được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy Nhà nước;
e) Người lao động nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của thầy thuốc.
g)Người lao động bị ốm đau tai nạn đã điều trị ba tháng liền,đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng và một phần tư thời gian hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng theo mùa vụ hay một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.”
+Trường hợp thứ nhất:Người lao động không được bố trí làm đúng công việc,địa điểm làm việc hay không được đảm bảo các điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Công việc,địa điểm làm việc,điều kiện làm việc là do điều khoản hai bên thỏa thuận,nếu các điều khoản này không được ghi trong hợp đồng lao động thì hợp đồng lao động đó không thể được xác lập.Hợp đồng lao động khi đã được kí kết và có hiệu lực thì bắt buộc các bên phải tuân thủ nội dung ghi trong hợp đồng,người sử dụng lao động phải đáp ứng các điều kiện đã thỏa thuân trong hợp đồng.Do đó chỉ cần người SDLĐ vi phạm quy định trên đã bị coi là vi phạm hợp đồng lao động.Vì vậy người lao động hoàn toàn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
+Trường hợp thứ hai:Người lao động không được trả công đầy đủ hay không được trả công đúng hạn theo hợp đồng.
Cái mà hai bên xác lập quan hệ lao động hướng tới là lợi ích thu được sau khi giao kết hợp đồng.Đối với người sử dụng lao động mục đích lớn nhất của họ là lợi nhuận thu được sau khi trừ các chi phí kinh doanh,còn đối với người lao động là lương và phụ cấp,kết quả của việc mua bán sức lao động trong quan hệ lao động.Vấn đề lương được trả là vấn đề mà bất kì người lao động nào cũng quan tâm vì đó là nguồn thu nhập để đảm bảo cho cuộc sống của họ,nếu như họ không được trả lương đầy đủ như theo hợp đồng có thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của họ,do vậy pháp luật cũng chú ý tới việc bảo vệ thu nhập đời sống cho người lao động,khi người sử dụng lao động vi phạm vấn đề này thì người lao động có quyền chấm dứt hợp đồng lao động.
+Trường hợp thứ ba:Người lao động bị ngược đãi,cưỡng bức lao động:
Trong trường hợp này NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng vì người lao động vi phạm khoản 2 điều 5 BLLĐ: cấm ngược đãi cưỡng bức người lao động.Nghị định 44 NĐ-Cp ngày 9/5/2003 hướng dẫn một số điều của Bộ luật lao động về Hợp đồng lao động đã giải thích rõ hơn về khái niệm bị ngược đãi cưỡng bức lao động: Bị ngược đãi,cưỡng bức lao động là trường hợp người lao động bị đánh đập,bị ép làm những công việc không phù hợp với giới tính,ảnh hưởng tới sức khỏe nhân phẩm danh dự của người lao động.
Trong quan hệ lao động sức lao động được coi là hàng hóa đặc biệt,người lao động bán sức lao động của mình cho người có nhu cầu.Điều đó không có nghĩa là người sử dụng lao động có quyền ngược đãi,đối xử tàn nhẫn,xúc phạm danh dự nhân phẩm và ép buộc người lao động để buộc họ phải làm việc.Bởi cho dù là quan hệ lao động giữa kẻ bán người mua thì danh dự nhân phẩm của người lao động phải được tôn trọng tuyệt đối cho dù làm việc với bất kì người sử dụng lao động nào.Khi việc ngược đãi, cưỡng bức lao động xảy ra thì nó thể hiện sự bất bình đẳng nghiêm trọng trong quan hệ lao động,người lao động bị buộc phải bán rẻ sức lao động của mình.Hậu quả của việc này chính bản thân NLĐ và xã hội phải gánh chịu.Lao động là nghĩa vụ của người lao động khi nhưng không đồng nghĩa với việc doanh nghiệp ép buộc người lao động làm việc quá sức và thời gian làm việc cho phép trong khi bản thân họ không được chăm lo đúng mức.Do vậy Luật lao động với mục đích bảo vệ các quyền nhân thân của người lao động,bảo vệ danh dự nhân phẩm uy tín của người lao động đã đặt ra quy định này và nó được coi là căn cứ để NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
+Trường hợp thứ tư:là bản thân người lao động hay gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thê tiếp tục thực hiện hợp đồng:
Theo Nghị định 44 năm 2003,thật sự khó khăn được hiểu là:
a) Chuyển chỗ ở thường trú đến nơi khác, đi lại làm việc gặp nhiều khó khăn;
b) Được phép ra nước ngoài định cư;
c) Bản thân phải nghỉ việc để chăm sóc vợ (chồng); bố, mẹ, kể cả bố, mẹ vợ (chồng) hay con bị ốm đau từ 3 tháng trở lên;
d) Gia đình có hoàn cảnh khó khăn khác được chính quyền cấp xã nơi cư trú xác nhận không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động.
Người lao động thuộc vào một trong những trường hợp kể trên họ sẽ có quyền viện dẫn để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.Có thể thấy chuyển đến nơi khác rộng hơn đến tỉnh thành phố khác.Quy định này tạo thuận lợi hơn cho người lao động thực hiện quyền của mình.Bởi nhiều khi trong thực tế việc chuyển nơi thường trú trong cùng một tỉnh cũng có thể gây nhiều khó khăn cho việc đi lại của người lao động.
Tuy nhiên trên thực tế có một số trường hợp chính bản thân người lao động bị ốm dài ngày,sức khỏe suy sụp nghiêm trọng liệu họ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng hay không?Vì thế cần thiết phải đề cập vấn đề này một cách rõ hơn nữa.
+Trường hợp thứ năm:Người lao động được bầu làm các nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hay bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước.
Xuất phát từ việc ưu tiên lợi ích cũng như thực hiện quyết định mang tính quyền lực nhà nước mà người lao động có thể chấm dứt công việc trong trường hợp này do không thể đảm đương nhiều công việc được,người lao động được bầu bổ nhiệm làm chức vụ trong bộ máy nhà nước có trọng trách và ý nghĩa xã hội lớn hơn nhiều so với việc cũ.Mặt khác đây là quyền tự do lao động tự do lựa chọn việc làm của người lao động.Người lao động có quyền làm ở nơi thuận tiện hơn,có ích hơn,có điều kiện phát huy khả năng của mình.
Một vấn đề được đặ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status