Khóa luận Hệ thống quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam - pdf 13

Download Khóa luận Hệ thống quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam miễn phí



Trong quan hệ dân sự, yếu tố chủ thể luôn là yếu tố hàng đầu cần được đề cập đến và được điều chỉnh trong pháp luật, vì chỉ có các chủ thể mới tạo ra quan hệ dân sự. Và trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài là một trong những chủ thể cơ bản. Khi xét đến chủ thể là người nước ngoài thì trước tiên cần xét đến yếu tố năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự vì chính yếu tố này là không thể thiếu và không thể tách rời nhau, tạo thành năng lực chủ thể - khả năng mà Nhà nước cho phép cá nhân, tổ chức nào đó tham gia vào quan hệ pháp luật khi đã thỏa mãn những điều kiện nhất định được pháp luật quy định. Điều 761 quy định Quy định này đã bổ sung thêm khoản 1 so với quy định về năng lực pháp luật của người nước ngoài của Bộ luật dân sự 1995, khẳng định rằng năng lực pháp luật của cá nhân người nước ngoài sẽ được xác định theo pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch, hay nói cách khác là nước mà người đó là công dân. Quy định này của pháp luật Việt Nam phù hợp với thông lệ của tư pháp quốc tế khi sử dụng một hệ thuộc cơ bản của tư pháp quốc tế là hệ thuộc luật nhân thân, mà cụ thể là hệ thuộc luật quốc tịch.
Trong khoa học pháp lý lâu nay, năng lực pháp luật của một cá nhân vẫn được hiểu là “khả năng của cá nhân được hưởng các quyền dân sự và gánh vác các nghĩa vụ dân sự”. Năng lực pháp luật xuất hiện trên cơ sở pháp luật của mỗi quốc gia, vì thế, công dân của mỗi nước khác nhau thì có năng lực pháp luật khác nhau và được hình thành trên những điều kiện khác nhau. Việc quy định năng lực pháp luật của mỗi cá nhân được xác định theo pháp luật của quốc gia mà người đó mang quốc tịch là hoàn toàn hợp lý và khoa học. Quy định như vậy còn cho thấy rõ quan điểm của Việt Nam về vấn đề này, đó là tôn trọng pháp luật của nước mà người nước ngoài đã lựa chọn mang quốc tịch.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38165/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

được nêu ra ở phần Phạm vi.
Hiện nay, trong khoa học tư pháp quốc tê tồn tại một số kiểu hệ thuộc cơ bản sau:
Luật nhân thân (lex personalis): bao gồm hai loại biến dạng là luật quốc tịch ( lex patriae) là luật của quốc gia mà đương sự là công dân và luật nơi cư trú (lex domicilii) được hiểu là luật của nước nơi mà đương sự có nơi cư trú ổn định. Hai kiểu hệ thuộc này đều thuộc quy chế dân sự của cá nhân (status personalis) của nguyên tắc luật nhân thân được sử dụng rộng rãi trong tư pháp quốc tế của nhiều nước trên thế giới mà chủ yếu là trong các quan hệ dân sự liên quan đến vấn đề nhân thân.
Luật quốc tịch của pháp nhân (lex societatis) là luật của quốc gia mà pháp nhân mang quốc tịch. Quy chế pháp lý này của pháp nhân thường được xác định thông qua một trong ba dấu hiệu cơ bản: nơi trung tâm quản lý của pháp nhân; nơi đăng ký thành lập của pháp nhân; nơi pháp nhân tiến hành hoạt động, kinh doanh chính trên thực tế…
Luật nơi có vật (lex rei sitae) được hiểu là vật (tài sản) đang ở đâu thì vật của nước đó sẽ được áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến vật (tài sản) đó. Hệ thuộc này thường được áp dụng để giải quyết các quan hệ về sở hữu có yếu tố nước ngoài.
Luật do các bên ký kết hợp đồng lựa chọn (lex voluntatis) được áp dụng trong các quan hệ về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, chủ yếu là trong lĩnh vực thương mại và hàng hải quốc tế. Quy định của hệ thuộc này xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của hợp đồng là tự nguyện, tự do ý chí và hoàn toàn bình đẳng thỏa thuận giữa các bên.
Luật nơi thực hiện hành vi (lex loci actus): bao gồm rất nhiều loại như Luật nơi ký kết hợp đồng (lex loci contratus), luật nơi thực hiện nghĩa vụ (lex loci soluntiontis), luật nơi thực hiện hành động (lex loci actus)…
Luật nơi vi phạm pháp luật (lex loci delicti commissi): được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật được giải quyết theo pháp luật nơi có hành vi vi phạm pháp luật và gây ra thiệt hại. Đây là một hệ thuộc được hình thành từ rất sớm trong tư pháp quốc tế và được ghi nhận trong hầu hết luật của các nước trên thế giới.
Ngoài ra còn có một số hệ thuộc khác như luật nước người bán (lex venditoris), luật tiền tệ (lex monetae), luật tòa án (lex fori)…
Áp dụng pháp luật nước ngoài
Trong thực tế, việc áp dụng các quy phạm xung đột có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Áp dụng pháp luật nước ngoài là “hoạt động thi hành pháp luật quốc gia thông qua việc áp dụng quy định của pháp luật nước ngoài nhằm điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”. Khi xảy ra hiện tường xung đột pháp luật, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ áp dụng pháp luật nước ngoài khi có QPXĐ dẫn chiếu tới. QPXĐ có thể là QPXĐ trong pháp luật Việt Nam, cũng có thể nằm trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Trong trường hợp QPXĐ trong điều ước quốc tế và trong pháp luật Việt Nam đều cùng điều chỉnh một quan hệ hay nhóm quan hệ nhất định mà có nội dung khác nhau thì ưu tiên áp dụng quy định của điều ước quốc tế (theo khoản 2 điều 759)
Khi QPXĐ dẫn chiếu tới luật pháp nước ngoài thì có nghĩa là dẫn chiếu tới toàn bộ hệ thống pháp luật của nước đó, không loại trừ luật nội dung, luật hình thức hay luật xung đột, cũng không phải chỉ dẫn chiếu đến một số những quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ cụ thể… Như vậy, khi áp dụng pháp luật nước ngoài là áp dụng toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài nên nó phải được giải thích, xác định nội dung và áp dụng để giải quyết vụ việc đúng như quy định của quốc gia đã ban hành. Có thể nói, đây chính là điều kiện tiên quyết để bảo hộ một các thiết thực quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân và pháp nhân nước mình khi các quan hệ pháp luật pháp sinh ở nước ngoài.
Pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại BLDS điều 759:…
Qua phân tích lý luận và tìm hiểu thực tiễn đều có thể thấy được sự cần thiết của việc áp dụng pháp luật nước ngoài đối với mỗi quốc gia và bản thân mỗi chủ thể trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên việc áp dụng pháp luật nước ngoài luôn gắn liền với việc tôn trọng chủ quyền lãnh thổ quốc gia, đảm bảo sự bình đẳng của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Vì thế, đi kèm với quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, pháp luật Việt Nam cũng đưa ra quy định là việc áp dụng đo hay hậu quả của việc áp dụng đó không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Đây chính là nội dung của vấn đề “bảo lưu trật tự công cộng” trong tư pháp quốc tế. Có thể hiểu quy tắc “bảo lưu trật tự công cộng” là việc pháp luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ, không được áp dụng nếu việc áp dụng đó dẫn đến hậu quả xấu, tai hại hay mâu thuẫn với những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội cũng như pháp luật của nước mình. Nội dung này cũng được quy định tương đối việc áp dụng tập quán quốc tế để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại khoản 4 điều 759.
CHƯƠNG 2. Hệ thống quy phạm xung đột trong bộ luật dân sự năm 2005
2.1. Hệ thống các quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế Việt Nam trước khi Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời
2.2. Sự ra đời và vai trò của phần thứ bảy trong Bộ luật dân sự 2005
2.3. Các quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong Bộ luật dân sự 2005
2.3.1. Các quy phạm xung đột về năng lực chủ thể
* Năng lực pháp luật của cá nhân là người nước ngoài
Trong quan hệ dân sự, yếu tố chủ thể luôn là yếu tố hàng đầu cần được đề cập đến và được điều chỉnh trong pháp luật, vì chỉ có các chủ thể mới tạo ra quan hệ dân sự. Và trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài là một trong những chủ thể cơ bản. Khi xét đến chủ thể là người nước ngoài thì trước tiên cần xét đến yếu tố năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự vì chính yếu tố này là không thể thiếu và không thể tách rời nhau, tạo thành năng lực chủ thể - khả năng mà Nhà nước cho phép cá nhân, tổ chức nào đó tham gia vào quan hệ pháp luật khi đã thỏa mãn những điều kiện nhất định được pháp luật quy định. Điều 761 quy định… Quy định này đã bổ sung thêm khoản 1 so với quy định về năng lực pháp luật của người nước ngoài của Bộ luật dân sự 1995, khẳng định rằng năng lực pháp luật của cá nhân người nước ngoài sẽ được xác định theo pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch, hay nói cách khác là nước mà người đó là công dân. Quy định này của pháp luật Việt Nam phù hợp với thông lệ của tư pháp quốc tế khi sử dụng một hệ thuộc cơ bản của tư pháp quốc tế là hệ thuộc luật nhân thân, mà cụ thể là hệ thuộc luật quốc tịch.
Trong khoa học pháp lý lâu nay, năng lực pháp luật của một cá nhân vẫn được hiểu là “khả năng của cá nhân được hưởng các quyền dân s
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status