Tiểu luận Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - pdf 13

Download Tiểu luận Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật miễn phí



Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật xác định vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Không có một cơ quan, cá nhân nào được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động này phải đảm bảo sự độc lập trên cơ sở chỉ tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc này còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo công bằng xã hội. Mọi cá nhân dù ở địa vị xã hội nào, nếu vi phạm pháp luật đều bị xét xử như nhau. Thẩm phán độc lập là một trong các yếu tố để thực hiện công bằng xã hội, xây dựng một nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, một nhà nước của dân và vì dân.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38163/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

A – MỞ ĐẦU
Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội. Muốn vậy, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế, không phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện triệt để. Bài viết dưới đây nhóm chúng em đi: phân tích và trình bày những nội dung cơ bản của nguyên tắc, ý nghĩa và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này.
B – NỘI DUNG
I – Những vấn đề chung về nguyên tắc “ khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
1. Khái niệm nguyên tắc và cơ sở của nguyên tắc
Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự: là những tư tưởng chủ đạo có tính chất bắt buộc thể hiện quan điểm của Nhà nước trong hoạt động xét xử, được quy định trong luật tố tụng hình sự, theo đó chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm ( Hội đồng xét xử) mới có quyền đưa ra phán quyết trên cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác.
Cơ sở pháp lý của nguyên tắc: Điều 130 Hiến pháp năm 1992 quy định: “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là cơ sở pháp lý để Bộ luật tố tụng hình sự xây dựng nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
2. Nội dung của nguyên tắc “ khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” theo pháp luật hiện hành
2.1. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
Độc lập nghĩa là tự đưa ra quyết định trên những chứng cứ và quy định của pháp luật để kết luận về vụ án mà không phụ thuộc vào bất cứ sự tác đọng nào khác. Về chủ thể của hoạt động xét xử thì sự độc lập được biểu hiện trên hai khía cạnh: độc lập với yếu tố khách quan và độc lập với yếu tố chủ quan.
2.1.1. Độc lập với các yếu tố khách quan
a. Độc lập với chủ thể khác của Tòa án
b. Độc lập với sự chỉ đạo của cấp Uỷ đảng
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình Đảng đề ra chủ trương chính sách để lãnh đạo các cơ quan nhà nước, không can thiệp sâu vào hoạt động chuyên môn của các cơ quan nhà nước đó. Đối với hoạt động của Tòa án nhân dân, biểu hiện của sự lãnh đạo của Đảng là chủ trương xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng không mâu thuẫn với sự độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm song thực tế, chế độ Đảng lãnh đạo nhà nước trong đó có các cơ quan, đơn vị, vị trí của cấp Uỷ đảng trong việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến sự độc lập của thẩm phán khi có sự tác động từ cấp Uỷ đảng. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải nhận thức đúng sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp để bảo đảm sự độc lập xét xử.
c. Độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
Độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nghĩa là “ Thẩm phán và Hội thẩm phải trực tiếp xem xét các chứng cứ của vụ án chứ không phải chỉ căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hay các chứng cứ mà Viện kiểm sát đã đưa ra trong bản cáo trạng. Bản án của Tòa án chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, đối chiếu với những quy định của pháp luật đề xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
d. Độc lập với những yêu cầu của người tham gia tố tụng với dư luận và với cơ quan báo chí
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập với yêu cầu của người tham gia tố tụng với báo chí, với dư luận nghĩa là việc xét xử chỉ dựa trên những chứng cứ, những quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào yêu cầu của những người nói trên. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc được phép tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
2.1.2. Độc lập với các yếu tố chủ quan
Độc lập với các thành viên của Hội đồng xét xử có quyền ngang nhau trong việc đánh giá chứng cứ: Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán. Luật quy định Thẩm phán và Hội thẩm ngang quyền nhau trong xét xử, có nghĩa là mỗi một thành viên của Hội đồng xét xử có quyền ngang nhau trong việc đánh giá chứng cứ thực và đưa ra quyết định vụ án. Việc đánh giá chứng cứ, kết luận được thực hiện một cách độc lập. Thẩm phán không được phép chỉ đạo Hội thẩm trong việc định tội danh, quyết định hình phạt.Hội thẩm cũng không được có thái độ ỷ lại Thẩm phán mà phải tích cực, chủ động và có trách nhiệm trong hoạt động chứng minh tội phạm.
2.2. Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật
Nội dung không kém phần quan trọng của nguyên tắc đó là việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập không có nghĩa là tùy tiện mà việc xét xử phải tuân theo pháp luật. Nó đòi hỏi “ Thẩm phán và Hội thẩm không một bước xa rời pháp luật, không có bất cứ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào”. Việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm chỉ dựa trên những quy định của pháp luật và pháp luật là căn cứ duy nhất để quyết định các vấn đề giải quyết vụ án. Pháp luật là tối thượng như lời luật sư xixêrôn thời La mã cổ đại đã từng nói: “ Quan tòa, đó là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị quan tòa câm”.
Nội dung Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật thể hiện ở những khía cạnh sau:
Sự tuân theo pháp luật hình sự: Luật hình sự nói chung bao gồm cả luật thực định và khoa học về luật hình sự. Bộ luật hình sự gồm hai phần là phần chung và phần các tội phạm. Muốn áp dụng đúng các quy định của bộ luật hình sự buộc thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức về định tội, quyết định hình phạt.
Sự tuân theo pháp luật tố tụng hình sự: có thể chia hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm thành hai giai đoạn. Thứ nhất là từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến trước ngày mở phiên tòa là giai đoạn hội thẩm xâm nhập hồ sơ để xem xét lại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, từ đó xây dựng kế hoạch xét hỏi và những tình huống xảy ra tại phiên tòa để có kế hoạch ứng phó thích hợp và những công việc khác cần thiết cho phiên tòa. Thứ hai là tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cần nắm chắc quy định của bộ luật tố tụng hình sự từ thủ tục bắt đầu tại phiên tòa đến khi kết thúc phiên tòa, trong đó quan tr...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status