Tổng quan chuỗi cung ứng thủy sản ở Việt Nam - pdf 12

Download Đề tài Tổng quan chuỗi cung ứng thủy sản ở Việt Nam miễn phí



MỤC LỤC
 
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3
LỜI MỞ ĐẦU 4
I. KHÁI NIỆM VỀ CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM 6
II. CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM KHAI THÁC HẢI SẢN 8
2.1 Sơ đồ chuỗi cung ứng sản phẩm khai thác thủy sản và vai trò của các bên liên quan 8
2.2 Lợi ích và xung đột giữa các bên liên quan 16
2.3 Phân tích một số trường hợp điển hình 22
2.4 Hiệu quả và tính cạnh tranh của chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS 30
III. GIẢI PHÁP CẢI TIẾN CHUỖI CUNG ỨNG NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 33
3.1 Tăng tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh của khâu KTHS 33
3.2 Tăng tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh của khâu CBHS 34
3.3 Phát triển các mô hình dịch vụ mua bán đảm bảo tính minh bạch về giá cả và chất lượng sản phẩm. 34
3.4 Tăng cường các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 35
3.5 Tăng cường các hoạt động quản lý và điều tiết của Nhà nước đối với chuỗi giá trị sản phẩm KTHS 35
3.6 Tăng cường hoạt động tuyên truyền, 35
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-32859/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ẫn đến việc phải vay vốn tiếp tục đầu tư sản xuất và sự lệ thuộc vào các chủ NV là tất yếu.
Đối với chủ tàu không phải vay vốn của chủ NV, thì cũng vẫn phụ thuộc vào chủ NV vì phải thông qua các chủ NV để bán sản phẩm. Phần lớn các chủ tàu không thể đứng ra bán sản phẩm trực tiếp cho các đối tượng muốn mua hàng, một phần vì không có khả năng trong mua bán, phần khác vì không có mối hàng và một lý do khách quan là sản phẩm khai thác rất đa dạng, không thể tiến hành phân loại ngay trên tàu, trong khi mỗi đối tượng mua hàng lại chỉ mua những sản phẩm chuyên biệt.
Và như vậy, đối với người KTHS, chuyến biển bị rủi ro nhất là không có sản phẩm hay có rất ít sản phẩm sẽ bị lỗ vốn chi phí chuyến biển. Có nhiều sản phẩm nhưng vào lúc mùa vụ rộ vẫn lo sợ thị trường không tiêu thụ hết (cùng nhiều hơn cầu), không bảo quản được, bán giá thấp cũng vẫn lỗ vốn (thu không bù đủ chi phí chuyến biển). May mắn nhất là sau khi bán sản phẩm, thu bù đủ chi và có một phần tích lũy cho chủ tàu (các chủ tàu) để phòng cho những rủi ro có thể gặp phải.
Liên đới chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế một cách trực tiếp đối với hiệu quả sản xuất của các chủ tàu là:
+ Các chủ NV có thể không sinh lợi nhưng cũng không mất chi phí – không bị thiệt hại vì không mua thì cũng không bán hàng. Trên thực tế, mọi khoản tiền đầu tư của chủ NV cho chủ tàu là các khoản vay của chủ tàu, trừ khi vì chủ tàu bị rủi ro không thể hoàn vốn cho chủ NV và chủ NV xóa nợ cho chủ tàu thì chủ NV cũng bị thiệt hại.
+ Các cơ sở chế biến: có thể được lợi do giá nguyên liệu đầu vào thấp – trong khi hợp đồng giao sản phẩm chế biến đã được ký kết, hay có thể không có nguyên liệu sẽ bị thiệt hại do không bù đắp được chi phí khấu hao vô hình của các trang thiết bị đã đầu tư và phạt do không thực hiện được hợp đồng.
+ Các cơ quan quản lý: thu được hay không thu được thuế, phí.
Nếu xét về mặt bảo quản sản phẩm: nếu chủ tàu bảo quản sản phẩm không tốt hay sử dụng các chất bảo quản không được phép thì sẽ gây thiệt hại trước mắt cho cơ sở chế biến, người tiêu dùng và trong tương lai không xa sẽ gây hậu quả cho chính chủ tàu trong quá trình phát triển: không có người mua hàng.
- Người mua bán trung gian
Người mua bán trung gian là những đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất do ít chịu rủi ro nhất trong chuỗi giá trị sản phẩm KTHS vì họ luôn luôn có thông tin và thực hiện được nguyên tắc: bán hàng với giá cao hơn giá mua hàng. Tất nhiên, để thực hiện được nguyên tắc này những người mua bán trung gian cũng bỏ ra không ít hoạt động trí óc một cách năng động phù hợp với quy luật cạnh tranh của thị trường mà rất nhiều các HTX mua bán, các doanh nghiệp kinh doanh thủy sản của Nhà nước đã không làm được.
Các người mua bán trung gian, mà chủ yếu là các chủ NV cũng có thể gặp một số rủi ro:
+ Mất tiền đầu tư do chủ tàu làm ăn thua lỗ, gặp tai nạn không có khả năng hoàn trả vốn.
+ Bị chủ NV cấp 2 hay cơ sở chế biến thủy sản chiếm dụng vốn hay không trả tiền (có chủ NV không đòi được hàng trăm triệu đồng do cơ sở chế biến thủy sản ngoài tỉnh làm ăn thua lỗ không có khả năng thanh toán tiền mua nguyên liệu).
+ Bị các chủ tàu đã nhận đầu tư bỏ trốn (có chủ NV cũng mất hàng tỷ đồng đầu tư cho các tàu tỉnh ngoài, sau đó không lên bến nữa).
+ Đối với một số chủ NV thực hiện “mua đứt bán đoạn” có thể bị các chủ NV cấp 2 hay cơ sở chế biến thủy sản hạ giá sản phẩm thấp hơn giá mua của chủ tàu do tàu về nhiều hay do chất lượng sản phẩm không tốt.
Đối với các đối tượng khác (buôn bán nhỏ, bán lẻ, siêu thị, đại lý, nhà hàng, ...) cũng có thể bị thua lỗ nhưng phần lớn do thiếu kinh nghiệm kinh doanh là chính.
Bên liên quan chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế một cách trực tiếp đối với hiệu quả kinh doanh của những người mua bán trung gian là chủ tàu, nhà máy chế biến, người tiêu dùng trong nước và nhà nhập khẩu thủy sản tươi sống. Hệ thống những người mua bán trung gian hoạt động hợp lý, đều đặn sẽ tạo ra sự ổn định cho thị trường tiêu thụ và người KTHS, chủ tàu, tạo ra sự cân bằng lợi ích giữa các bên và là nền tảng cho sự phát triển. Ngược lại, nếu những người mua bán trung gian hoạt động không hợp lý, không đều đặn sẽ tạo ra sự rối loạn thị trường: giá sản phẩm quá thấp hay quá cao so với giá mà sản phẩm nên có phù hợp với thị trường cung cũng như câu và có thể sẽ gây nên phá sản đối với các chủ tàu.
Nếu xét về mặt bảo quản sản phẩm: nếu những người mua bán trung gian bảo quản sản phẩm không tốt hay sử dụng các chất bảo quản không được phép thì sẽ gây thiệt hại trước mắt cho cơ sở chế biến, người tiêu dùng và trong tương lai không xa sẽ gây hậu quả cho chính những người mua bán trung gian trong quá trình phát triển: không có người mua hàng. Cho đến nay, nhiều cơ sở thu mua không chuyển lên thành doanh nghiệp mặc dù vốn rất lớn và địa bàn hoạt động rất rộng. Một phần do thói quen làm ăn cá thể, một phần khác có thể do chưa hiểu hết về luật doanh nghiệp nên họ sợ sẽ gặp phải những khó khăn trong thực hiện các thủ tục tài chính và hành chính khi thành doanh nghiệp.
- Các nhà chế biến
Trong chuỗi cung ứng thủy sản, các nhà chế biến là khâu thứ hai làm tăng giá trị sản phẩm thông qua sản xuất. Hiện nay các cơ sở chế biến đều đã thực hiện cổ phần hóa hay là các doanh nghiệp tư nhân nên họ đều có sự nghiên cứu thị trường, quan hệ bạn hàng, quyết định đầu tư hợp lý, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Thông qua khâu chế biến, giá trị sản phẩm KTHS được biến đổi rất mạnh, thông qua biểu hiện của giá cả, giá sản phẩm đầu ra thường gấp từ 2-3 lần giá nguyên liệu đầu vào tùy theo mặt hàng sản phẩm chế biến.
Các cơ sở chế biến cũng có thể gặp phải một số rủi ro:
+ Người mua hàng chậm thanh toán tiền
+ Chậm hợp đồng bị người mua hàng trừ tiền
+ Sản phẩm không đảm bảo chất lượng, ATVSTP do nguyên liệu đầu vào không tốt nên không được thị trường chấp nhận: mất chi phí sản xuất và vận chuyển.
Nếu xét về mặt bảo quản sản phẩm và ATVSTP: nếu những người chế biến không thực hiện tốt việc bảo quản sản phẩm và ATVSTP nếu gian lận được thì sẽ gây thiệt hại trước mắt cho người tiêu dùng và các nhà nhập khẩu nhưng sẽ bị phá sản tức thì do khi khách hàng phát hiện ra gian lận thì sẽ không có khách hàng và phá sản là điều tất yếu.
Liên đới chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế một cách trực tiếp đối với hiệu quả sản xuất của các cơ sở chế biến là các chủ tàu: một mặt nếu các doanh nghiệp chế biến thất bại, sức ép lên giá cả sản phẩm trong khâu khai thác của những người mua bán trung gian sẽ càng lớn, mặt khác hạn chế đầu ra của các sản phẩm chế biến sử dụng nguyên liệu là sản phẩm KTHS cũng sẽ ảnh hưởng nhiều đến giá cả sản phẩm KTHS. Đối tượng chịu ảnh hưởng về lợi ích kinh tế thứ hai là người tiêu dùng: Khi sản phẩm chế biến khan...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status