Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng Đồng Bằng Sông Hồng - pdf 12

Download Đề tài Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng Đồng Bằng Sông Hồng miễn phí



Vùng ĐBSH vẫn tiếp tục đóng vai trò là vùng sản xuất lúa gạo của cả nước, do vậy cần tiếp tục hoàn chỉnh thủy lợi để duy trì diện tịch gieo trồng, tăng năng suất để tăng sản lượng. Chuyển đổi cơ cấu phải chuyển mạnh được sản xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa, đa dạng và cơ cấu hợp lý các loại sản phẩm có chất lượng, giá trị lớn, phù hợp với nền kinh tế thị trường. Các sản phẩm nông nghiệp được tập trung phát triển: Lúa – gạo; rau, thực phẩm cao cấp và trái cây; thịt gia súc, gia cầm; hoa và cây cảnh.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-30107/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

cạnh tranh thấp
Hiện nay, theo các cuộc điều tra riêng rẽ, tỷ trọng công nghệ tiên tiến của các doanh nghiệp trong Vùng hiện chưa được 3%, tỷ lệ tự động hóa dưới 10%. Nhìn chung , hiệu quả sản xuất trong vùng còn tương đối thấp ở trong nhiều lĩnh vực, cụ thể là năng suất ruộng đất thấp, tiêu hao điện cao, năng suất lao động các ngành nghề thấp, hệ số ICOR cao, xuất khẩu ròng thấp (khoảng 30-35%)… Trình độ khoa học công nghệ - kỹ thuật và trình độ quản lý của các cơ sở sản xuất còn thấp xa so với khu vực và thế giới, các sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều thuộc nhón thay thế nhập khẩu, chu kỳ sản phẩm ngắn, năng lực cạnh tranh yếu. Đi liền với tình trạng đó là phát triển chưa bền vững (phụ thuộc nhiều vào thị trường nước ngoài, thiếu điện, tắc nghẽn giao thông…) và khả năng cạnh tranh thấp. Các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp còn yếu. Trong nền kinh tế thị trường, các cơ sở kinh doanh đều rất cần các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp từ phía các cơ quan công quyền cũng như một thể chế hỗ trợ thị trường mà dựa vào đó, các hoạt động dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển như hỗ trợ thông tin, hỗ trợ pháp lý, tư vấn… Vùng ĐBSH với các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long có thể coi là những nơi có các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp khá hơn nhiều vùng khác, nhưng so với yêu cầu hội nhập và phát triển thì còn yếu. Quán tính của cơ chế kế hoạch hóa tập trung có thể là một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình hình này.
Giai đoạn vừa qua, trong khi các khu công nghiệp, khu chế xuất phát triển nhanh, nhưng công tác quản lý và quy hoạch của vùng này còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển nhanh cả về kinh tế lẫn xã hội. Nếu xét về quy mô vùng ĐBSH hiện có số khu công nghiệp, khu chế xuất đứng thứ 2 trong cả nước nhưng nếu xét về số lao động trên 1ha diện tích đất tự nhiên của khu công nghiệp, khu chế xuất thì ĐBSH thấp hơn trung bình chung của cả nước (25,6 lao động/ha so với 34,2 lao động/ha), Đồng bằng sông Cửu Long (28,3 lao động/ha) và thấp hơn vùng Đông Nam Bộ (41,1 lao động/ha) và Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ (29,4 lao động/ha). Nhiều vấn đề liên quan tới chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tạo công ăn việc làm, quy hoạch kiến trúc đô thị,… đang được đặt ra cần có những nghiên cứu hoàn chỉnh, tổng thể nhằm giải quyết những yếu kếm bất cập này.
Hình 02: Số lao động bình quân trong một dự án tại khu công nghiệp, khu chế xuất của các vùng và cả nước năm 2008
2.1.4. Tổ chức lãnh thổ đã có bước phát triển nhưng còn tồn tại nhiều bất hợp lý
Sự phối hợp liên tỉnh chưa đảm bảo phát triển cân đối và hài hòa trong toàn vùng. Chế độ kế hoạch hóa tập trung gây ra tình trạng trì trệ kéo dài, tâm lý ỉ lại, thụ động, tình trạng hành chính hóa, cát cứ địa phương ở vùng ĐBSH còn rất nặng nề là một chướng ngại cực lớn đối với quá trình đổi mới và mở của, chuyển đổi cơ chế kinh tế hiện nay. Từng tỉnh là một đơn vị kinh tế - xã hội độc lập. Sự liên kết gắn bó giữa các tỉnh với nhau lỏng lẻo, không tạo được sự phân công lao động trong vùng. Do đó, thiếu bổ xung, hỗ trợ lẫn nhau, chưa tạo thành được sức mạnh tổng hợp, làm cơ sở cho tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thêm vào đó sự chênh lệch giàu nghềo của vùng ĐBSH còn rất lớn, đặc biệt giữa hai tiểu vùng: vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng Nam ĐBSH. Các tỉnh thành phố ở phía bắc vùng ĐBSH (theo thông báo số 108/TB-VPCP ngày 30/07/2003 của Văn phòng Chính phủ gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh) có các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long là những trung tâm thương mại và giao lưu quốc tế của vùng và cả nước; là địa bàn tập trung lớn các ngành công nghiệp (cơ khí chế tạo, điện tử tin học, sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp) và dịch vụ; tập trung phần lớn cán bộ khoa học, các trường đại học và trung tâm nghiên cứu của vùng. Trong khi đó tiểu vùng phía Nam (gồm: Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Thái Bình) chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển rất ít các trung tâm phát triển. Hiện nay, tiểu Bắc vùng ĐBSH chiếm tới 83,6% GDP của vùng; GDP bình quân đầu người đạt gần 1.200 USD gấp 1,2 lần cả vùng ĐBSH và gấp gần 2 lần các tỉnh Nam vùng ĐBSH, thu chi ngân sách trên 1 đồng GDP gấp 1,1 lần cả vùng ĐBSH và 1,8 lần so với các tỉnh Nam vùng ĐBSH, xuất khẩu bình quân đầu người gấp 1,3 lần cả vùng ĐBSH và 4,8 lần vùng Nam ĐBSH.
Tỷ lệ đô thị hóa của vùng ĐBSH thấp hơn so với cả nước nhưng tốc độ đô thị hóa lại nhanh nhất cả nước (9,2% trong thời kì 1995-2008). Tuy nhiên, tốc độ đô thị hóa tăng nhanh do các quyết định hành chính là chủ yếu nên thực tế đô thị trong vùng chỉ có sự chuyển biến về lượng nhưng lại gần như không có nhiều thay đổi về chất. Thêm vào đó, hầu hết các trung tâm phát triển đều bám dọc đường giao thông còn lại các khu vực xa tuyến lộ kém phát triển. Do đó, các đô thị phình to theo quy mô, theo chiều rộng mà chưa phát triển theo chiều sâu nên tốn nhiều diện tích tại một vùng đất có mật độ dân cư cao nên chưa phát huy đầy đủ thế mạnh của vùng đồng bằng châu thổ trù phú nhất ở phía Bắc.
2.1.5. Tâm lý phát triển chưa hình thành rõ nét và phát huy tác dụng
Vùng ĐBSH với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gồm 7 tỉnh, thành phố có tiềm lực kinh tế không khác gì so với vùng Đông Nam Bộ. Ngoài ra, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ còn được rất nhiều ưu đãi về vốn đầu tư, về đầu tư cơ sở hạ tầngvà cơ chế chính sách cũng được ưu tiên hơn so với vùng Đông Nam Bộ (vốn nhà nước của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ lớn gần 1,4 lần so với vùng Đông Nam Bộ). Nhưng có thể thấy, vùng Đông Nam Bộ hiện đang có sự phát triển kinh tế tốt hơn vùng ĐBSH. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là: cơ chế, chính sách, và văn hóa. Về yếu tố lịch sử, có nhiều nghiên cứu cho rằng người miền Bắc (vùng ĐBSH) còn nặng tư tưởng phong kiến, giáo huấn, không dám chịu rủi ro nhiều; còn người miền Nam (vùng Đông Nam Bộ) là những người mở cõi nên dám chịu rủi ro, dám mạo hiểm và có cái nhìn rộng hơn.
Trong báo cáo “Lịch sử hay chính sách: tại sao các tỉnh phía bắc không tăng trưởng nhanh hơn” đã phản ánh được phần nào nguyên nhân tại sao các tỉnh phía bắc lại không tăng trưởng nhanh hơn các tỉnh miền Đông Nam Bộ trong khi các tỉnh phía bắc có nhiều thuận lợi hơn về cơ sở hạ tầng và vốn đầu tư từ ngân sách. Đó chính là cơ chế cũ của thời kỳ bao cấp đã ngấm quá sâu vào miền bắc, cũng như ở miền bắc đang tồn tại một thứ văn hóa ì, chậm đổi mới ở một số không nhỏ người dân.
2.1.6. Sự cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc
Vị trí địa lý thuận lợi cũng đồng thời là một thách thức khó khăn cho chính vùng ĐBSH. Hiện nay các loại hàng hóa của ĐBSH trong thị trường Đông Nam Á có sức cạnh tranh không lớn. Hầu hết các mặt hàng của vùng ĐBSH và của Việt Nam sản xuất đưa ra thị trường thế giới đ
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status