Đồ án Thực trạng và giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề - pdf 11

Download Đồ án Thực trạng và giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề miễn phí



MỤC LỤC
 
Lời mở đầu 1
Phần 1: phát triển nghề truyền thống và tác động đến môi trường sinh thái 2
1. Phát triển nghề truyền thống tại Việt Nam 2
2. Phát triển nghề truyền thống tác động đến môi trường sinh thái 3
Phần hai: Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề 4
2. Ô nhiễm môi trường tại các làng vật liệu xây dựng và gốm xứ: 6
3. Làng nghề tái chất thải: giấy, nhựa, kim loại 7
4. Làng nghề dệt nhuộm 11
5. Làng thủ công nnỹ nghệ: 13
Phần 3: Phương hướng và giải pháp giảm thiểu môi trường làng nghề truyền thống 16
1.Phương hướng cải thiện môi trường làng nghề 16
1.1 Chuyển đổi làng nghề thành khu lưu giữ các di sản văn hoá và khu du lịch với các sản phẩm đặc trưng có tính nghệ thuật cao: 17
1.2 Xây dựng các cụm công nghiệp vừa và nhỏ nông thôn: 18
2. Áp dụng giải pháp cải thiện môi trường làng nghề: 19
Kết luận 22
Tài liệu tham khảo 23
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-9116/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

điểm và thực trạng ô nhiễm tại các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm. Theo thống kê mới nhất, Việt Nam có 197 làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, chủ yếu tập trung ở miền Bắc là 142 làng, miền Trung 42 làng và 21 làng ở miền Nam. Các hộ gia đình thường có tâm lý và thói quen sản xuất trên quy mô nhỏ, khép kín, tự phát nên hạn chế đầu tư trang thiết bị, đổi mới công nghệ dẫn đến hiệu quả sản xuất không cao, tiêu tốn nguồn nhiên liệu đồng thời thải ra môi trường lươngj lớn chất thải đặc biệt là chất thải hữu cơ. Đối với môi trường không khí, đặc trưng nhất là mùi hôi thối của nguyên vật liệu tồn đọng lâu ngày và do sự phân huỷ của các hợp chất hưu cơ trong chất thải rắn và chất thải từ cống rãnh kênh mương. Quá trình phân giải yếm khí các chất hữu cơ sinh ra khí độc ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe của người dân. Đặc biệt phải kể đến các nghề sản xuất nước mắm, do phơi ướt ngoài trời nên mùi hôi tanh khắp nơi. Hay ô nhiễm tại “làng xương” ở xã Hoà Bình, Thường Tín, Hà Tây: mỗi ngày làng nhập về khoảng 30 tấn xương các loại sau đó thải hàng tấn mẩu phế thải ra bờ mương hay ngoài đồng vì chưa có bãi tập kết. Hơn nữa các hộ gia đình còn đổ ra những nước thải vừa đỏ vừa đen mùi hôi thối không thể chịu nổi. Phần lớn các nước và rác đều được thải trực tiếp ra ngoài không qua bất kỳ khâu xử lý nào. Chất lượng nước ngầm tại đây đều có dấu hiệu ô nhiêm với hàm lượng COD, TS, NH4+… ở nước giếng rất cao (được mô tả ở bảng sau).
Chỉ tiêu
Tiêu chuẩn cho phép
Tinh bột Bình Minh
Bún Phú Đô
Nước mắm Hải Thanh
Rượu Tân Đô
Đậu phụ Quang Bình
pH
5.5-9
4.6
6.1
9,59
12
5.1
SS(mg/l)
100
926
414
10
266
1.764
COD(ml/g)
100
1.858
2.967
597
3.868
1.271
BOD5(ml/g)
50
743
1.850
250
1.700
1.080
SN(ml/g)
60
145,6
20,9
9,26
1.002
67
SP(ml/g)
6
27,5
2,79
0,034
44,2
23
Chỉ tiêu tại một số làng nghề chế biến nông sản
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy đa phần các nước thải đều bị ô nhiễm nặng thậm trí dân cư ở những vùng này phải mua nước ngột từ nơi khác để sử dụng. Mặt khác các làng nghề này đều tận thu phế liệu để chăn nuôi. Nước thải từ nguồn này cũng gây ô nhiễm môi trường không khí và nước đáng kể. Theo kết quả điều tra y tế ta mới thấy rõ hết được ảnh hưởng của môi trường đến sức khoẻ của người dân như: phụ khoa ở phụ nữ là 13-38%; viêm da là 4,5-23%; đường hô hấp là 6-18%; đau mắt là 9-15%. Nguyên nhân chính là môi trường sinh hoạt không bảo đảm vệ sinh, nguồn nước sạch khan hiếm.
Xét một ví dụ cụ thể tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề tại Dương Liễu, Hoài Đức, Hà Tây chuyên chế biến các sản phẩm nông sản đã có uy tín trên thị trường như miền dong, đỗ xanh bóc tách, bún khô, phở khô… Khi về làng, ấn tượng đầu tiên không phải là những ngôi nhà tầng khanh trang mới được xây dựng mà là rác và ruồi muỗi. Rác có khắp ở các nơi với đủ các loại như rác khô, sợi, nước cốt… tràn ra mặt đất chảy xuống cống, ao hồ, mương máng với những mùi đặc trưng phả vào không khí. Không khí, đất đều đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trong làng có khoảng 2000 hộ sản xuất và trung bình mỗi ngày thải ra 433 tấn giác thải các loại chưa qua xử lý. Nhiều nhất là nước thải và rác thải từ việc làm miến, ngày đêm thải ra những thứ đen ngòm, đặc quánh chồng chất lên nhau cao hàng mét. Trước kia làng có rầt nhiều ao hồ, mương rãnh đan chéo nhau nhưng bây giờ đã bị rác thải “san bằng” trở thành bãi phơi miến, là nơi để ruồi, nhặng phát triển.
2. Ô nhiễm môi trường tại các làng vật liệu xây dựng và gốm xứ:
Hiện nay nước ta hiện có 31 làng sản xuất vật liệu xây dựng và gốm xứ phân bố đều trên cả nước và tập chung tại các vùng có khả năng cung cấp nguyên liệu cho hoạt động sản xuất. Số lượng làng nghề tăng theo nhu cầu của thị trường. Hoạt động sản xuất bao gồm khai thác đá, nung vôi đóng gạch ngói, gốm xứ. Một số làng được biết tới nhiều như: gốm xứ Bát Tràng ở Gia Lâm, Hà Nội; Đáp Cầu, Bắc Ninh; Phước Lâm, Khánh Hoà; Dạ Trạch, Hưng Yên… Các tác động chủ yếu đến môi trường là do bụi và khói lò nung. Quy mô nung gạch, vôi chủ yếu theo phương pháp thủ công sử dụng nguyên liệu là than, khí thải ra từ các lò nung là CO, SO, SO2…bởi vì thiết kế không đúng quy cách do vậy quá trình cháy không hết. Đã có một số lò nung gốm xứ thay lò đốt than bằng lò đốt gas vừa khỏi ô nhiễm môi trường vừa nâng cao năng suất sản phẩm, rút ngắn thời gian nung đốt tính ra thì hiệu quả kinh tế vẫn cao hơn khi sử dụng lò than nhưng chi phí ban đầu khá tốn kém. Một số hộ gia đình đã chuyển sang lò gas nhưng Đối với các làng nghề khai thác đá, ô nhiễm chủ yếu là bụi từ khu vực khai thác và tiếng ồn do nổ mìn của các hoạt động của máy khoan, đục, nghiền, xay… Việc khai thác 1m3 đá nguyên khai qua chế biến sẽ sinh ra 0,1-0,5kg bụi giầu silic,vượt tiêu chuẩn cho phép từ 3-5 lần và tiếng ồn thưong xuyên ở mức cao. Lượng khí thải từ các lò gạch thủ công còn ảnh hưởng đến hoa mầu và mùa màng của nông dân tại các làng nghề và các vùng lân cận xung quanh nữa. Ngoài ra việc khai thác không đúng quy hoạch gây thoái hoá đất, phá huỷ thảm thực vật, tăng nguy cơ xói mòn và giảm độ phì nhiêu của đất, hậu quả cũng gây ảnh hưởng đến chất lượng mùa màng. Người dân làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng trực tiếp sống trong môi trường có nồng độ bụi, khí độc cao công việc nặng nhọc nên tỷ lệ mắc các đường hô hấp, da và các bệnh về mắt và các rối loạn thần kinh cao. Làng nghề Đông Tâm, Thanh Hoá và làng nghề Kiện Khê, Hà Nam có tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp do sản xuất trên 50%. Ngoài ra, các vấn đề về an toàn lao động cũng chưa được quan tâm thoả đáng ở các làng nghề này dẫn tới nhiều tai nạn lao động như bỏng hơi, bỏng nhiệt, bị mảnh vỡ đá. nổ mìn…
3. Làng nghề tái chất thải: giấy, nhựa, kim loại…
Đây là nhóm làng nghề tận phế liệu làm nguyên liệu cho sản xuất, nhờ đó giảm chi phí đầu tư và giảm lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường nên các làng nghề rất được khuyến khích phát triển. Mặt khác, trong khi chưa có các cơ sở lớn tái chế chất thải, thì các làng nghề tái chất thải đã trở thành một mạng lưới thu gom phế liệu và chất thải. Các nghành tái chế được chia làm ba loại chính đó là: giấy, kim loại và nhựa. Chủ yếu tập chung ở miền Bắc và nghành tái chế kim loại là chủ yếu (có 81 làng tái chế kim loại trong tổng số 90 làng nghề tái chế). Số lượng làng tái chế không lớn nhưng tỷ lệ cơ giới hoá cao hơn các làng nghề khác rất nhiều, chiếm từ 50-70%. Khi nói về các làng tái chế phế liệu thì không thể không nhắc tới làng tái chế giấy ở Dương Ổ, Bắc Ninh sản xuất hàng năm là 12.000 tấn với rất nhiều chủng loại, thu hút hơn 5.000 lao động. Hay tái chế sắt nhôm ở Vân Chàng, Nam Định thu hút trên 3.000 lao động với sức sản xuất 90 tấn phế liệu/ngày, mức lương trung bình của một người lao động là 600-700nghìn/tháng. Hay làng nghề khắc đá tại Phước Kiều, Quảng Nam - Đà N
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status