Tài liệu Luận văn tốt nghiệp: "Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới" - Pdf 99

Luận văn tốt nghiệp:
"Những biện pháp nhằm phát triển thị
trường hàng hóa của doanh nghiệp
thương mại nước ta trong thời gian
tới"
1
Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU
Thương mại là một ngành của nền kinh tế quốc dân, là lĩnh vực trao đổi
hàng hóa thông qua mua bán trên thị trường. Thương mại Việt Nam rất phát
triển từ sau thời kỳ đổi mới (1986) và đạt được nhiều thành tựu to lớn trong
phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại góp phần nâng
cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại trong việc lưu
thông hàng hóa phục vụ tiêu dùng và sản xuất.
Để tăng cường sự hội nhập quốc tế, đẩy mạnh hơn công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặc biệt sau khi gia nhập AFTA vào năm
2006 thì phát triển thị trường hàng hóa cho các doanh nghiệp thương mại
nước ta là yêu cầu khách quan, cấp thiết.
Trong bài viết này, em xin trình bày về "Những biện pháp nhằm phát
triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời
gian tới" nhằm mục đích nhận thức đúng đắn hơn về thực trạng phát triển thị
trường hàng hóa của các doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian
qua từ đó nêu ra những biện pháp đúng đắn nhằm phát triển thị trường hàng
hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới.
Trong bài viết này em xin trình bày các vấn đề sau:
+ Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển thị trường hàng hóa ở doanh
nghiệp thương mại.
2
+ Phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta
trong thời gian tới.
+ Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doanh

của các yếu tố ấy và thực hiện trao đổi hàng hóa thông qua thị trường. Vì vậy
đã nói đến thị trường phải nói đến các yếu tố sau:
Một là, phải có khách hàng, không nhất thiết phải gắn với địa điểm xác
4
định.
Hai là, khách hàng phải có nhu cầu chưa được thỏa mãn. Đây chính là cơ
sở thúc đẩy khách hàng mua hàng hóa và dịch vụ.
Ba là, khách hàng phải có khả năng thanh toán, tức là khách hàng phải
có khả năng trả tiền để mua hàng.
1.1.2. Các yếu tố thị trường.
Các yếu tố của thị trường gồm: cung, cầu và giá cả thị trường.
Tổng hợp các nhu cầu của khách hàng (người mua) tạo nên cầu về hàng
hóa.
Tổng hợp các nguồn cung ứng sản phẩm cho khách hàng trên thị trường
tạo nên cung hàng hóa.
Sự tương tác giữa cung và cầu, tương tác giữa người mua và người mua,
người bán với người bán và người bán với người mua hình thành giá cả thị
trường. Giá cả thị trường là một đại lượng biến động do sự tương tác của cung
và cầu trên thị trường của một loại hàng hóa, ở địa điểm và thời điểm cụ thể.
1.1.3. Các quy luật của thị trường.
* Quy luật giá trị:
Đây là quy luật kinh tế của kinh tế hàng hóa. Khi nào còn sản xuất và
lưu thông hàng hóa thì quy luật giá trị còn phát huy tác dụng. Quy luật giá trị
yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị lao động.
Xã hội, cần thiết trung bình để sản xuất và lưu thông hàng hóa và trao đổi
ngang giá. Việc tính toán chi phí sản xuất và lưu thông bằng giá trị là cần thiết
bởi đòi hỏi của thị trường, của xã hội với nguồn lực có hạn phải sản xuất được
nhiều của cải vật chất cho xã hội nhất, hay là chi phí cho một đơn vị sản phẩm
là ít nhất với điều kiện chất lượng sản phẩm cao nhất. Người sản xuất hoặc
kinh doanh nào có chi phí lao động xã hội cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn,

tranh mà phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng sử dụng
vũ khí cạnh tranh hữu hiệu.
1.1.4. Các chức năng của thị trường.
6
* Chức năng thừa nhận.
Doanh nghiệp thương mại mua hàng hóa về để bán. Hàng hóa có bán
được hay không phải thông qua chức năng thừa nhận của thị trường, của
khách hàng, của doanh nghiệp.
Nếu hàng hóa bán được, tức là được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp
thương mại mới thu hồi được vốn có nguồn thu trang trải chi phí và có lợi
nhuận. Ngược lại, nếu hàng hóa đưa ra bán nhưng không có ai mua, tức là
không được thị trường thừa nhận. Để được thị trường thừa nhận, doanh
nghiệp thương mại phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, hàng hóa phải
phù hợp với nhu cầu của khách hàng, phù hợp ở đây là phù hợp về số lượng,
chất lượng, sự đồng bộ, quy cách, cỡ loại, mầu sắc, bao bì, giá cả, thời gian và
địa điểm thuận tiện cho khách hàng.
* Chức năng thực hiện.
Chức năng này đòi hỏi hàng hóa và dịch vụ phải được thực hiện giá trị
trao đổi: hoặc bằng tiền hoặc bằng hàng, bằng các chứng từ có giá trị khác.
Người bán hàng cần tiền, còn người mua cần hàng. Sự gặp gỡ giữa người bán
và người mua được xác định bằng giá hàng. Hàng hóa bán được tức là có sự
dịch chuyển hàng hóa từ người bán sang người mua.
* Chức năng điều tiết và kích thích.
Qua hành vi trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên thị trường, thị trường điều
tiết và kích thích sản xuất và kinh doanh phát triển hoặc ngược lại. Đối với
doanh nghiệp thương mại, hàng hóa và dịch vụ bán hết nhanh sẽ kích thích
doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động tạo nguồn hàng, thu mua hàng hóa để cung
ứng ngày càng nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ cho thị trường. Ngược lại, nếu
hàng hóa và dịch vụ không bán được, doanh nghiệp sẽ hạn chế mua, phải tìm
khách hàng mới, thị trường mới, hoặc chuyển hướng kinh doanh mặt hàng

Một là, bảo đảm điều kiện cho sản xuất phát triển liên tục với quy mô
ngày càng mở rộng và bảo đảm hàng hóa cho người tiêu dùng phù hợp với thị
hiếu (sở thích) và sự tự do lựa chọn một cách đầy đủ, kịp thời, thuận lợi với
8
dịch vụ văn minh.
Hai là, nó thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu, đưa đến cho người tiêu
dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân những sản phẩm mới. Nó kích thích sản
xuất ra sản phẩm chất lượng cao và gợi mở nhu cầu hướng tới các hàng hóa
chất lượng cao văn minh và hiện đại.
Ba là, dự trữ hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng sản xuất, giảm bớt
dự trữ ở các khâu tiêu dùng, bảo đảm việc điều hòa cung cầu.
Bốn là, phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ tiêu dùng sản xuất và
tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú, đa dạng, văn minh. Giải phóng con
người khỏi các công việc không tên trong gia đình, vừa nặng nề vừa mất thời
gian. Con người được nhiều thời gian tự do hơn.
Năm là, thị trường hàng hóa dịch vụ ổn định có tác dụng to lớn để ổn
định sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân.
1.1.6. Phân loại thị trường hàng hóa.
1.1.6.1. Căn cứ vào công dụng của hàng hóa.
* Thị trường hàng tư liệu sản xuất.
Đó là những sản phẩm dùng để sản xuất. Thuộc về hàng tư liệu sản xuất
có: các loại máy móc, thiết bị như máy tiện, phay, bào các loại nguyên vật
liệu, các loại nhiên liệu, các loại hóa chất, các loại dụng cụ, phụ tùng Người
ta con gọi thị trường hàng tư liệu sản xuất là thị trường yếu tố đầu vào của các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
* Thị trường hàng tư liệu tiêu dùng.
Đó là những sản phẩm dùng để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của con
người. Ví dụ: lương thực, quần áo, giày dép, thuốc chữa bệnh, các sản phẩm
hàng tiêu dùng cho cá nhân người tiêu dùng. Các sản phẩm này ngày càng
nhiều theo đà phát triển của sản xuất và nhu cầu đa dạng, nhiều vẻ của con

để sản xuất hàng hóa đó là lãng phí và không thể đứng vững trên thị trường
trong nước khi có hàng ngoại nhập vào. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước thực chất là phát triển sản xuất hàng trong nước. Có như vậy mới chủ
động, tạo nhiều công ăn việc làm, đất nước phát triển và mới có hàng hóa để
trao đổi với nước ngoài.
10
* Hàng nhập ngoại.
Hàng nhập ngoại là hàng cần thiết phải nhập từ nước ngoài do nguồn
hàng trong nước chưa sản xuất đủ hoặc do kỹ thuật công nghệ, chưa thể sản
xuất được. Nhập hàng ngoại (kể cả kỹ thuật, công nghệ tiên tiến) là một yếu
tố không thể thiếu được và là một tác nhân kích thích cho sản xuất tiến lên.
Trên thế giới ngày nay, không có một quốc gia nào lại không có ngoại
thương, không có xuất nhập hàng hóa. Xuất nhập khẩu hàng hóa là lợi dụng
được ưu thế tương đối và tuyệt đối của mỗi quốc gia và là yếu tố cho cả hai
bên có quan hệ xuất nhập khẩu.
1.2. Doanh nghiệp thương mại (DNTM).
1.2.1. Khái niệm.
Doanh nghiệp thương mại là một đơn vị kinh doanh được thành lập hợp
pháp nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại, tổ chức lưu
chuyển hàng hóa, mua hàng hóa ở nơi sản xuất và đem bán ở nơi có nhu cầu
nhằm thu lợi nhuận.
Đặc thù của DNTM là hoạt động trong lĩnh vực phân phối lưu thông,
thực hiện lưu chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng chứ không
sản xuất ra các hàng hóa đó, mua để bán chứ không phải để tiêu dùng.
DNTM là một tổ chức, một đơn vị kinh doanh có đủ các điều kiện mà
pháp luật qui định và cho phép kinh doanh những mặt hàng pháp luật không
cấm. DNTM phải có tổ chức, đảm bảo những điều kiện về vốn, về tư cách
pháp nhân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi kinh doanh và hàng
hóa kinh doanh của mình.
1.2.2. Các loại hình doanh nghiệp thương mại.

* Hệ thống người buôn bán nhỏ: là hộ cá thể có các cửa hàng, quầy hàng
kinh doanh các hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
1.2.3. Chức năng của DNTM.
Chức năng của DNTM là những nhiệm vụ chung nhất gắn liền với sự tồn
tại, phát triển của DNTM và là tiêu thức để phân biệt DNTM với các doanh
nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp xây dựng và các doanh nghiệp của các
12
ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường DNTM
có các chức năng:
DNTM phát hiện nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và tìm
mọi cách để thỏa mãn các nhu cầu đó. DNTM trở thành bộ phận trung gian
độc lập giữa sản xuất với tiêu dùng. DNTM cần nghiên cứu nhu cầu thị
trường để phát hiện, tìm ra những chủng loại hàng hóa, dịch vụ mà thị trường
có nhu cầu và tìm mọi cách tạo ra chúng nhằm đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu đó
của khách hàng.
Chức năng thứ hai: là DNTM phải không ngừng nâng cao trình độ thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng để nâng cao hiệu quả kinh doanh. DNTM phải là
người hậu cần tốt của sản xuất và tiêu dùng, đem đến cho người tiêu dùng
những hàng hóa đủ về số lượng, tốt về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, kịp thời
gian với giá cả hợp lý.
Chức năng thứ ba: giải quyết tốt các mối quan hệ bên trong nội bộ doanh
nghiệp và quan hệ giữa doanh nghiệp với bên ngoài. Vì giải quyết tốt các mối
quan hệ bên trong và bên ngoài là việc cần thiết để tạo ra sự phối hợp nhịp
nhàng trong kinh doanh. Giải quyết các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp
là giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp với
nhau, làm cho mọi người thân thiện, hiểu biết lẫn nhau, hiểu biết được mục
tiêu nhiệm vụ của doanh nghiệp từ đó đoàn kết, phấn đấu vì mục tiêu chung.
Giải quyết mối quan hệ bên trong là cơ sở, là nền tảng để giải quyết mối quan
hệ bên ngoài DNTM. Đó là quan hệ với bạn hàng, người cung ứng, với cơ
quan cấp trên, với cơ quan quản lý, với khách hàng tạo nền văn hóa doanh

1.2.5. Vai trò của DNTM.
Doanh nghiệp thương mại là hợp phần tất yếu, quan trọng đối với nền
kinh tế quốc dân, là nơi thể hiện đầy đủ, tập trung nhất các mối quan hệ lớn
trong xã hội: quan hệ giữa sản xuất với tiêu dùng; giữa cung và cầu; giữa tiền
và hàng; giữa xuất khẩu với nhập khẩu; giữa thu và chi ngân sách, đồng thời
cũng là nơi diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa cơ chế quản lý cũ
14
chưa bị xóa bỏ hoàn toàn với cơ chế quản lý mới chưa hoàn chỉnh cùng đan
xen tồn tại với nhau. Bởi vậy DNTM phải phát huy vai trò là cầu nối, là trung
gian cần thiết giữa sản xuất với tiêu dùng. Hoạt động của các DNTM góp
phần tạo ra các điều kiện vật chất cần thiết để phát triển sản xuất, nâng cao
đời sống của nhân dân; điều chỉnh tỷ lệ cân đối trong sự phát triển của các
ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế, phát huy vai trò chỉ đạo, điều tiết thị
trường, xứng đáng là công cụ chủ yếu của Nhà nước trong việc điều tiết và
quản lý vĩ mô.
Doanh nghiệp thương mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản
xuất, mở rộng lưu thông tạo điều kiện không ngừng nâng cao hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp, tích cực góp phần tăng tích lũy xã hội nhằm
thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập mau
chóng vào nền kinh tế thế giới.
Doanh nghiệp thương mại thông qua hoạt động kinh doanh của mình đã
làm tốt việc phân phối hàng hóa từ nơi thừa đến nơi thiếu qua đó nâng cao
mức hưởng thụ của người dân. Và khi mức sống của người dân được tăng lên
thì vai trò của doanh nghiệp thương mại càng quan trọng.
DNTM có vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, đặc biệt là
thị trường nước ngoài thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, đưa hàng hóa
trong nước ra nước ngoài và nhập hàng hóa, thiết bị kỹ thuật.
1.3. thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại.
1.3.1. Khái niệm.
Thị trường hàng hóa của DNTM là một hay nhiều nhóm khách hàng với

không bù đắp được chi phí, sẽ không có lãi. Điều này chỉ rõ vị trí quan trọng
của thị trường nguồn hàng có ảnh hưởng đến các nghiệp vụ kinh doanh khác
và kết quả kinh doanh của DNTM.
Một vấn đề quan trọng đối với DNTM là tạo được nguồn hàng có giá rẻ,
chất lượng tốt và phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Nếu DNTM mua hàng
hóa có giá cao thì khách hàng sẽ không mua. DNTM khó tiêu thụ hàng hóa.
16
DNTM phải mua hàng với giá thấp hơn giá thị trường và bán với giá mà
khách hàng có thể chấp nhận được. Tuy nhiên chất lượng hàng hóa cũng rất
quan trọng. Nếu cùng một giá mà DNTM bán hàng hóa có chất lượng tốt hơn
thì khách hàng sẽ ưa thích hơn. Như vậy thị trường nguồn hàng có vai trò
quyết định hiệu quả kinh doanh của DNTM, quyết định DNTM có lãi hoặc lỗ
khi bán hàng hóa. Nhưng điều này chỉ đúng với một số hàng hóa thông
thường còn một số hàng hóa có giá trị cao thì lợi nhuận phụ thuộc vào độ tin
cậy về chất lượng và công tác dịch vụ.
Ví dụ: để mua một chiếc xe máy trị giá 25 triệu VND thì khách hàng sẽ
hết sức chú ý tới chất lượng của xe còn giá cả chênh lệch 1 triệu đến 2 triệu
thì không quan trọng miễn là chất lượng xe tốt.
Thị trường nguồn hàng thuận lợi, cách thu mua phù hợp sẽ giúp cho
DNTM đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Thị trường nguồn hàng càng gần
DNTM hoặc điều kiện giao thông vận tải thuận lợi thì sẽ giúp cho DNTM
mua được hàng nhanh chóng, kịp thời, giảm chi phí cho vận chuyển, làm cho
giá thành của sản phẩm giảm đáng kể. Còn cách thu mua hợp lý tránh cho
DNTM những khoản chi phí không cần thiết mà vẫn mua được hàng hóa đạt
yêu cầu.
DNTM có thể áp dụng các hình thức thu mua sau:
Mua theo đơn đặt hàng và hợp đồng kinh tế ký trước. Hình thức mua này
giúp cho DNTM ổn định được nguồn hàng, có nguồn hàng chắc chắn để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng.
Mua hàng không theo hợp đồng: đây là hình thức mua đứt bán đoạn và

thu vốn và lợi nhuận để tiếp tục quá trình kinh doanh, có như vậy DNTM mới
tiếp tục phát triển, tức là DNTM phải có thị trường bán.
Thị trường bán của DNTM gồm: thị trường bán trong nước và thị trường
bán nước ngoài (xuất khẩu).
Vai trò của thị trường bán đối với DNTM được thể hiện ở các mặt sau:
+ Thị trường bán là nơi tiêu thụ hàng hóa cho DNTM mà ở đó DNTM
18
bán hàng, thu hồi vốn và lợi nhuận có thị trường bán hàng tức là có khách
hàng và có nhu cầu về hàng hóa mà DNTM bán. Vấn đề đối với DNTM
không chỉ là bán được hàng mà còn phải làm cho khách hàng thỏa mãn, hài
lòng. Có như vậy DNTM mới tạo được niềm tin với khách hàng, tạo được bạn
hàng lâu dài, đảm bảo lợi ích lâu dài đối với DNTM.
+ Thị trường bán quyết định hàng hóa kinh doanh, phương thức phục vụ
của DNTM. DNTM kinh doanh những hàng hóa mà khách hàng đang có nhu
cầu lớn, chưa được thỏa mãn. Nếu DNTM kinh doanh hàng hóa không có nhu
cầu thì sẽ không bán được hàng. Khi đời sống của nhân dân được cải thiện thì
nhu cầu của họ càng tăng lên và những đòi hỏi về chất lượng hàng hóa,
phương thức phục vụ của DNTM ngày càng tăng cao. DNTM phải có phương
thức phục vụ tốt nhất, xem khách hàng là "thượng đế" để khách hàng được
thỏa mãn tốt nhất. Khách hàng có xu hướng mua hàng hóa của những DNTM
có phương thức phục vụ nhiệt tình, có uy tín, đảm bảo chất lượng hàng hóa.
+ Thị trường bán hàng trở thành vấn đề sống còn đối với DNTM. Nếu
DNTM có thị trường bán ổn định, tiêu thụ được hàng hóa và thu được lợi
nhuận cao thì DNTM có điều kiện tiếp tục phát triển, tiếp tục mở rộng kinh
doanh. Còn nếu DNTM không bán được hàng, bị thua lỗ thì DNTM có thể
phải ngừng hoạt động hoặc phải chuyển sang kinh doanh mặt hàng khác.
DNTM có thể áp dụng các phương thức bán hàng sau:
Căn cứ vào địa điểm giao hàng cho khách hàng có hình thức bán tại kho
của người cung ứng, tại kho của DNTM, bán qua cửa hàng quầy hàng và bán
tại đơn vị tiêu dùng.

THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA NƯỚC TA.
2.1.1. Những đặc trưng cơ bản của thị trường hàng hóa nước ta.
Thị trường hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần. Cơ sở
khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do còn nhiều hình thức sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng IX đã khẳng định tiếp tục
thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và
phát triển sản xuất kinh doanh, tập trung sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách,
pháp luật, đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện để bảo đảm các thành phần kinh
tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh
đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư
bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thị trường hàng hóa có sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Thông qua hệ
thống các chính sách, chiến lược, quy hoạch, nhà nước quản lý, dự báo và
định hướng thị trường trong và ngoài nước, giải quyết các vấn đề về thị
trường hàng hóa.
Thị trường hàng hóa phát triển trên cơ sở tự do lưu thông hàng hóa dịch
vụ theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Đây là điều kiện nhất
thiết phải có vì nếu không được tự do lưu thông hàng hóa dịch vụ thì hàng
hóa sẽ không được chuyển đến người tiêu dùng có nhu cầu, không được phân
phối theo đúng quy luật thị trường thì thị trường hàng hóa không phát triển
được.
Giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quy luật cung - cầu trên thị
trường. Giá cả thị trường được hình thành trên cơ sở giá trị thị trường, nó là
giá trị trung bình và là giá trị cá biệt của những hàng hóa chiếm phần lớn trên
21
thị trường. Mua bán theo giá cả thị trường tạo ra động lực để thúc đẩy sản
xuất kinh doanh phát triển, tạo cơ hội để doanh nghiệp vươn lên.
Tất cả các mối quan hệ được tiền tệ hóa, tuân theo các quy luật của lưu

tiềm năng và sức mạnh của nó không phải là nhỏ.
2.1.2.4. Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành
lập tại Việt Nam. Doanh nghiệp thương mại 100% vốn đầu tư nước ngoài
được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp
nhân theo pháp luật Việt Nam. Các doanh nghiệp thương mại 100% vốn đầu
tư nước ngoài thường là các chi nhánh của các doanh nghiệp nước ngoài
thành lập tại Việt Nam để tiêu thụ các sản phẩm của các hãng nước ngoài tại
Việt Nam.
2.1.2.5. Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Đây là hình thức biểu hiện sự kết hợp và giao lưu các thành phần kinh tế.
các doanh nghiệp này có đặc điểm là chế độ sở hữu vốn, tài sản không thuần
nhất. Đơn giản nhất là các doanh nghiệp liên doanh giữa các thành phần kinh
tế hoặc giữa các bên của Việt Nam và các bên nước ngoài. ở nước ta, công ty
trách nhiệm hữu hạn có hai loại: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
và công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên.
Xu hướng các doanh nghiệp thương mại là Công ty cổ phần và công ty
trách nhiệm hữu hạn sẽ ngày càng phát triển.
2.1.2.6. Hệ thống tiểu thương.
Đây là hệ thống cửa hàng, quầy hàng, điểm bán hàng của cá nhân. Lực
lượng này rất đông đảo và rất khó quản lý. Thành phần tham gia rất đa dạng:
cán bộ nhân viên Nhà nước về hưu, mất sức và các tầng lớp dân cư. Kinh
doanh hàng hóa dịch vụ rất đa dạng và nhiều người trong số họ không có
đăng ký kinh doanh.
Ưu thế của tiểu thương thể hiện trong việc đáp ứng tốt các yêu cầu nhỏ
lẻ, không thường xuyên, nhanh nhạy đáp ứng yêu cầu của thị trường. Là lực
lượng đáng kể, hệ thống tiểu thương cần mẫn đáp ứng nhu cầu của dân cư và
điều tiết hàng hóa giữa các vùng. Một số tiểu thương kinh doanh có hiệu quả,
có thể tích lũy mở rộng kinh doanh và chuyển thành các doanh nghiệp tư
23

24
chóng. Năm 1991 cả nước có 631 ngàn hộ kinh doanh, năm 2000 đã tăng lên
đạt 1,1 triệu hộ, gấp 2 lần năm 1991. Nếu so với tổng số hộ sản xuất kinh
doanh (trừ hộ sản xuất nông nghiệp) thì hộ cá thể kinh doanh thương mại,
dịch vụ chiếm trên 60%.
Mạng lưới chợ (hình thức truyền thống của thị trường) đã được củng cố
và phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước. Năm 1994 cả nước có 4.763 xã
có chợ thì đến năm 1999 toàn quốc có 8.231 chợ, bình quân 0,8 chợ/xã.
Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, hội chợ và triển lãm hàng hóa
cũng được hình thành và phát triển. Tại các tỉnh và thành phố lớn như Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng loại hình phục vụ mới, văn
minh, lịch sự và hiện đại đang trở nên phổ biến.
Về tình hình phát triển thương mại ở các vùng trong nước thì vùng Đông
Nam Bộ có số doanh nghiệp thương mại, dịch vụ nhiều nhất với 5571 doanh
nghiệp vào cuối 1999, thứ nhì là đồng bằng sông Hồng với 3075 doanh
nghiệp. Theo số liệu thống kê thì số doanh nghiệp thương mại, dịch vụ tại
thời điểm 31/12/1999 phân theo địa phương như sau:
Các loại doanh nghiệp
Vùng
Tổng số
DNTMD
V
DNN
N
TNH
H
DNT
N
CTC
P


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status