Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội - Pdf 97

Lời nói đầu
Thực hiện đường lối đúng đắn mà Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra,
nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, từ một nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô
của Nhà nước, làm cho nền kinh tế nước ta đã từng bước hoà nhập với
nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Trong nền kinh tế đa thành phần,
các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế của đất nước. Mặc dù có không ít các doanh nghiệp Nhà
nước phải giải thể vì làm ăn không có hiệu quả, nhưng bên cạnh đó có
những doanh nghiệp đứng vững và ngày càng phát triển, mở rộng sản xuất,
đồng thời cũng có những doanh nghiệp Nhà nước đứng trước cơ chế thị
trường với quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của nó vẫn đang gặp rất nhiều
khó khăn, lúng túng.
Đối với các doanh nghiệp, cơ chế thị trường tạo ra những điều kiện
thuận lợi cho mọi hoạt động nhưng chính nó cũng tạo ra những thách
thức mới. Chấp nhận cơ chế thị trường là một tất yếu, chính vì thế trong
các doanh nghiệp, các công tác nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
như công tác quản trị tiêu thụ, công tác quản trị cung ứng, công tác
Marketing...đặc biệt là công tác quản trị vốn trong các doanh nghiệp cần
được phát triển và hoàn thiện. Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế
thị trường, nhu cầu vốn cho từng doanh nghiệp đang là một vấn đề rất
bức xúc. Hơn thế nữa trong nền kinh tế thị trường với sức cạnh tranh của
nền kinh tế cũng như của từng doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào hiệu quả
kinh doanh. Vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nói đến hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có vốn. Mục đích
của sản xuất kinh doanh là thu được lợi nhuận. Do đó vấn đề đặt ra cho
các doanh nghiệp là phải huy động vốn để đảm bảo sản xuất kinh doanh
diễn ra thuận lợi, và phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả ngày càng cao
để đứng vững hơn trên thương trường, từ đó mở rộng sản xuất kinh
doanh, tạo công ăn việc làm nâng cao đời sống cho người lao động, đặc

cao hiệu qua sử dụng vốn kinh doanh đòi hỏi phải giải quyết vấn đề như:
Xác dịnh nhu cầu vốn kinh doanh, tăng hiệu suất sử dụng vốn kinh
doanh, tăng vòng quay vốn kinh doanh, đổi mới, sửa chữa, hiện đại hoá
máy móc thiết bị... song tựu chung lại phải tập trung giải quyết hai vấn đề
cơ bản sau:
Một là: Nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều giá trị sản phẩm
đáp ứng nhu cầu thị trường.
Hai là: Tìm một giải pháp tiết kiệm vốn với một đồng vốn tạo ra
được nhiều giá trị hàng hoá dịch vụ.
Trước khi đi vào nội dung cụ thể của vấn đề nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn chúng ta cần xem xét: vốn kinh doanh là gì ? Những đặc điểm
của nó trong quá trình vận động như thế nào ?
Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt.
Mục tiêu của quỹ tiền tệ là để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, tức là
mục đích tích luỹ không phải là mục đích tiêu dùng như một vài quỹ tiền
tệ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh phải có trước khi diễn ra
hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta nói vốn là số tiền phải ứng trước
cho kinh doanh. Song khác với một số quỹ tiền tệ khác trong doanh
nghiệp, vốn kinh doanh sau khi ứng ra được sử dụng vào kinh doanh và
sau một chu kỳ hoạt động phải được thu về để ứng tiếp cho chu kỳ hoạt
động sau. Vốn kinh doanh không thể bị tiêu mất đi như một số quỹ khác
trong doanh nghiệp. Mất vốn đối với doanh nghiệp đồng nghĩa với nguy
cơ phá sản.
Cần có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Muốn có vốn thì trước hết
chúng ta phải có tiền. Song có tiền, thậm chí có những khoản tiền rất lớn
cũng không phải là vốn. Tiền được gọi là vốn khi nó đồng thời thoả mãn
hai điều kiện sau:
Một là: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định hay
nói cách khác tiền phải đảm bảo bằng lượng tài sản có thực.
Hai là: Tiền phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định. Sự

nguyên vật liệu, chất xám...
Vốn vận động phải sinh lời: Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng
để biến thành vốn thì đồng tiền đó phải vận động sinh lời. Tiền là dạng
tiềm năng của vốn trong quá trình vận động, đồng vốn được biểu hiện
dưới những hình thái khác nhau: Tiền, vật tư, hàng hoá. Nhưng đến khi
kết thúc một vòng tuần hoàn vốn lại quay về hình thái tiền tệ nhưng phải
lớn hơn thì sản xuất kinh doanh mới có lãi. Nếu đồng vốn bị ứ đọng, tài
sản cố định không cần dùng, tài nguyên, sức lao động không được sử
dụng, tiền, vàng bỏ vào dự trữ hoặc các khoản nợ khế đọng khó đòi...chỉ
là những đồng vốn ''chết''. Mặt khác tiền có vận động nhưng lại bị thất
tán, không quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn thì đồng vốn cũng
không được bảo đảm chu kỳ vận động tiếp theo bị ảnh hưởng.
Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định thì mới có
thể phát huy tác dụng. Không có đủ lượng vốn nhất định thì không thể
đáp ứng được yêu cầu tối thiểu đặt ra trong sản xuất kinh doanh.
Vốn phải có giá trị về thời gian: Điều này có nghĩa là phải xem xét
yếu tố thời gian của đồng vốn. Trong cơ chế kế hoạch tập trung vấn đề
này không được xem xét kỹ lưỡng vì Nhà nước đã tạo ra sự ổn định của
đồng tiền một cách giả tạo trong nền kinh tế. Trong điều kiện cơ chế thị
trường đều phải xem xét giá trị thời gian của tiền vốn, bởi vì do ảnh
hưởng của sự biến động giá cả, lạm phát sức mua của đồng tiền ở những
thời điểm khác nhau cũng khác nhau.
Vốn phải gắn với chủ sở hữu: Mỗi đồng tiền vốn phải gắn với chủ
sở hữu nhất định. Trong nền kinh tế thị trường không thể có những đồng
vốn vô chủ, bởi lẽ những đồng vốn vô chủ gây ra sự chi tiêu lãng phí kém
hiệu quả. Khi xác định được chủ sở hữu thì đồng vốn mới được chi tiêu tiết
kiệm có hiệu quả.
Vốn phải được quan niệm là hàng hoá đặc biệt. Những người có
vốn có thể đưa vốn vào thị trường, những người cần tới vốn, tới thị
trường vay nghĩa là người đi vay vốn được quyền sử dụng vốn của người

quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố
định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng
lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc
điểm kinh tế của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng
quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định.
Vì vậy trước hết ta phải xem xét đặc điểm trong cách phân loại tài sản cố
định.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu, tham gia trực
tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất như máy móc thiết bị, nhà
xưởng, phương tiện vận tải, vật kiến trúc, chi phí mua bằng phát minh
sáng chế.
Đặc điểm cơ bản của tài sản cố định là có thể tham gia vào nhiều
chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, mặc dù tài sản cố định bị hao mòn,
song nó vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu,
còn giá trị của nó được chuyển dịch dần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra.
Chỉ khi nào tài sản cố định bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy
không có lợi về mặt kinh tế thì nó mới được thay thế đổi mới. Tài sản cố
định là một phạm trù kinh tế, tài sản cố định phải là sản phẩm của lao
động xã hội (tức là có giá trị) và tham gia vào quá trình sản xuất với chức
năng của tư liệu lao động (giá trị sử dụng). Điều này cho thấy tài sản cố
định phải có đầy đủ các thuộc tính của một hàng hoá (giá trị và giá trị sử
dụng) như mọi hàng hoá thông thường khác. Do đó những lực lượng tự
nhiên như thác nước, dòng sông, đất đai...có trường hợp làm tư liệu lao
động của xã hội chế tạo máy chỉ được coi là sản phẩm đang lưu thông;
nhà xưởng, thiết bị máy móc đang xây dựng và lắp đặt chỉ được coi là đối
tượng lao động. Tư liệu lao động chỉ được coi là tài sản cố định khi thoả
mãn 2 điều kiện sau.
- Có thời gian sử dụng hơn 1 năm
- Có giá trị ≥ 5 triệu đồng
Có thể nói, quá trình vận động của tài sản cố định được cụ thể hoá như

luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi
phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của tài sản cố định.
Ba là: Sau nhiều chu kỳ sản xuất, vốn cố định mới hoàn thành một
vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển
vào giá trị sản phẩm dần dần tăng lên, song phần vốn cố định ban đầu và
tài sản cố định lại dần giảm xuống cho đến khi tài sản cố định hết thời
gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm
sản xuất ra thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm luân chuyển trên đây của vốn cố định đòi hỏi việc
quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật
của nó là các tài sản cố định của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Vốn lưu động.
a. Khái niệm vốn lưu động
Mỗi doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh,
ngoài tư liệu lao động ra còn có đối tượng lao động. Đối tượng lao động
khi tham gia vào sản xuất không giữ nguyên trạng thái vật chất ban đầu,
bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình chế biến
hợp thành thực thể sản phẩm. Bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá
trình sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau lại phải dùng loại đối tượng lao
động khác. Cũng do đặc điểm nêu trên nên toàn bộ giá trị của đối tượng
lao động được chuyển dịch toàn bộ một lần vào sản phẩm và được bù đắp
khi giá trị sản phẩm được thực hiện.
Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật
được gọi là các tư liệu lao động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn
lưu động của doanh nghiệp.
Vậy vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tư liệu
lao động và tài sản lưu thông nhằm đảo bảo cho quá trình tái sản xuất của
doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục.
b. Đặc điểm của vốn lưu động.
Vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận động trong

nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp để nhận biết doanh
nghiệp đó thuộc loại nào. Chẳng hạn, doanh nghiệp có vốn kinh doanh
chủ yếu thuộc nguồn ngân sách Nhà nước thì đó là doanh nghiệp Nhà
nước, hoặc một doanh nghiệp khác lại có vốn kinh doanh từ nguồn tự có
và cổ phần thì đó là một doanh nghiệp tư nhân, một công ty cổ phần.
Trong cơ chế thị trường, vốn kinh doanh của mỗi doanh nghiệp có
thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi ngành đều có ưu
nhược điểm nhất định, vì thế huy động vốn với một chi phí thấp nhất là
yêu cầu cấp bách đặt ra đối với doanh nghiệp. Do đó cần thiết phải phân
loại.
- Căn cứ vào quyền sở hữu về vốn thì vốn kinh doanh của doanh
nghiệp có thể chia làm hai loại: Nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả:
+ Vốn chủ sở hữu: Là phần vốn thuộc quyền sử hữu của doanh
nghiệp (doanh nghiệp Nhà nước chủ sở hữu là Nhà nước, doanh nghiệp
tư nhân chủ sở hữu là những người đóng góp vốn). Khi doanh nghiệp mới
được thành lập, vốn chủ sở hữu hình thành vốn điều lệ, còn có một số
nguồn khác cũng thuộc nguồn vốn chủ sở hữu như: lợi nhuận không chia,
quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự trữ tài chính, chênh lệch tỷ giá, đánh giá lại
tài sản... Đây là nguồn rất quan trọng và có tính ổn định cao.
+ Nợ phải trả: Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân
kinh tế: nợ tiền vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, tiền huy động
từ phát hành trái phiếu, các khoản nợ, phải trả cho Nhà nước, cho người
bán, cho công nhân viên. Nguồn này có tính chất tạm thời và thường
xuyên biến đổi. Sử dụng loại vốn này doanh nghiệp phải trả một khoản
chi phí gọi là chi phí sử dụng vốn hay lãi vay.
Để đo lường vốn vay của chủ sở hữu với số nợ vay người ta thường
dùng hệ số nợ hay đòn bẩy tài chính. Nó vừa là một công cụ tích cực cho
việc khuyếch đại lợi nhuận ròng trên một đồng vốn chủ sở hữu và là một
công cụ kìm hãm sự gia tăng đó. Sự thành công hay thất bại này tuỳ thuộc

ro lớn. Do dó người lãnh đạo phải thận trọng suy xét phương pháp lựa
chọn hình thức huy động vốn, chi phí sử dụng vốn thấp nhất, khả năng
gặp rủi ro nhỏ nhất, hiệu quả kinh tế đem lại lớn nhất.
- Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn có thể chia thành:
Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
+ Nguồn vốn thường xuyên: là nguồn vốn có tính chất ổn định và có
thể sử dụg trong một thời gian dài gồm: Vốn chủ sở hữu, khoản vay trung
và dài hạn. Nguồn vốn này được dùng để mua sắm tài sản cố định và một
bộ phận tư liệu lao động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tạm thời: là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể dụng
mang tính chất tạm thời trong một thời gian ngắn (dưới 1 năm) như:
Nguồn vốn chiếm dụng hợp lý vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín
dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác.
Phân loại nguồn vốn kinh doanh thành nguồn vốn thường xuyên và
nguồn vốn tạm thời, giúp cho người quản lý xem xét, huy động các nguồn
vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, lập kế hoạch tài chính, hình
thành nên những dự định về tổ chức vốn trong tương lai trên cơ sở xác
định quy mô, số lượng cần thiết, lựa chọn nguồn vốn và quy mô thích
hợp cho từng nguồn vốn đó, tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cao.
Việc lựa chọn nguồn vốn nào, số lượng và thời hạn bao nhiêu là
tuỳ thuộc và điều kiện cụ thể của từng nguồn cấp vốn. Song cũng phải
theo xu hướng khai thác triệt để nguồn vốn tự có, vốn bên trong doanh
nghiệp. Chỉ khi nguồn vốn bên trong không đủ đáp ứng thì doanh nghiệp
phải tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài. Nguồn tài trợ từ bên ngoài là cần
thiết nhưng cũng không nên trông đợi quá mức vào những nguồn vốn bên
ngoài doanh nghiệp.
Từ việc nghiên cứu các phương pháp phân loại nguồn vốn sản xuất
kinh doanh chúng ta rút ra những ý nghĩa quan trọng.
Một là: việc phân loại vốn giúp cho người quản lý nắm bắt được cơ

phối và sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có như sức lao động, nguồn hàng
hóa, và các nguồn lực khác một cách tốt nhất nhằm phát triển hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường, vốn kinh doanh của doanh nghiệp thường
được xem xét về quyền sở hữu đối với vốn, từ đó quyết định loại hình doanh
nghiệp. Chẳng hạn như đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn kinh doanh
của doanh nghiệp là do Nhà nước cấp. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân,
đây là doanh nghiệp do cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.Đối với công ty cổ phần thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp do
vốn góp của các cổ đông.
1.3 HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH VÀ BIỆN
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP
1.3.1 Hiệu quả vốn kinh doanh
1.3.1.1.Khái niệm hiệu quả vốn kinh doanh.
Mục đích của hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới hiệu
quả kinh tế trên cơ sở khai thác và sử dụng một cách triệt để mọi nguồn
lực sẵn có. Chính vì thế các nguồn lực kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn kinh
doanh của doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ tới hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh, tạo lập, khai thác và sử dụng các tiềm lực về vốn hợp lý
hay không hợp lý sẽ có tác động tích cực hay tiêu cực tới hiệu quả sử
dụng vốn nói riêng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung
của doanh nghiệp.
Hiệu quả vốn kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng sử
dụng vốn kinh doanh của một doanh nghiệp, là một phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của doanh
nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với
chi phí thấp nhất.
Nếu nhìn nhận tổng quát thì hiệu quả vốn kinh doanh của 1 doanh

ngược lại.
* Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu.
Công thức
Doanh lợi vốn chủ sở hữu =
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn chủ sở hữu sử dụng trong
kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng.
Đây là những chỉ tiêu chung về vốn sản xuất kinh doanh, để đánh
giá một cách chính xác và tìm ra nguyên nhân khắc phục hay phát huy
phục vụ cho công tác quản lý thì doanh nghiệp tiến hành đánh giá hiệu
quả sử dụng của từng loại vốn thông qua các chỉ tiêu cá biệt sau:
b. Chỉ tiêu cá biệt.
* Hiệu quả sử dụng vốn cố định.
- Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định.
Hiệu suất sử dụng vốn cố
định
=
Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ.
Để đánh giá đúng mức kết quả quản lý của từng thời kỳ, chỉ tiêu
hiệu suất sử dụng vốn cố định cần phải xem xét trong mối liên hệ với chỉ
tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
Công thức
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định=
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng nguyên giá tài sản cố định tham
gia vào quá trình kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh
thu thuần trong kỳ.
- Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định: Là đại lượng nghịch đảo của chỉ
tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định.

doanh nghiệp đã sử dụng tiết kiệm vốn lưu động.
- Doanh lợi vốn lưu động.
Công thức
Doanh lợi vốn lưu động =
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn lưu động sử dụng trong kỳ
tham gia sản xuất kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Mức
doanh loại vốn lưu động càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu
động càng cao và ngược lại.
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

Trích đoạn Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ mỏy của cụng ty: Đặc điểm tỡnh hỡnh hoạt độngcủa cụng ty: Tỡnh hỡnh sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Cụng ty: Những tồn tại và thành tớch của Cụng ty trong cụng tỏc quản lý và sử dụng vốn kinh doanh: DU LỊCH ĐƯỜNG SẮT HÀ NỘI.
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status