Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu - Pdf 96

Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
LỜI NÓI ĐẦU
Công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước những năm qua đã thu được những thành tựu đáng kể, tốc độ tăng trưởng
kinh tế ở mức cao và ổn định, kiềm chế lạm phát ở mức một con số, thị trường
trong nước và quốc tế ngày càng được mở rộng… Có được những kết quả này là
nhờ một phần không nhỏ vào sự thành công trong hoạt động thương mại quốc tế
của Việt Nam thông qua việc thực hiện tốt chính sách kinh tế mở và tiến hành các
biện pháp cải cách kinh tế trên nhiều mặt theo xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu
hoá.
Nhiều năm trước đây, hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam
chưa phát triển đúng với khả năng và phát huy tốt vai trò của nó đối với sự phát
triển kinh tế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế này và một trong những
nguyên nhân cơ bản là chúng ta thiếu những nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập
khẩu trong đó đặc biệt phải kể đến là nguồn tín dụng ngân hàng.

1
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Việc phát triển hình thức tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu của ngân
hàng không chỉ mang lại lợi ích cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn mang lại lợi
ích cho toàn xã hội và ngay cả bản thân ngân hàng bởi tín dụng là hoạt động sinh
lời chủ yếu của ngân hàng. Nhận thức rõ vấn đề đó, từ năm 1997 Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam với vai trò là một ngân hàng chủ lực trong lĩnh vực Đầu tư
và Phát triển đã bắt đầu triển khai hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu và bước đầu
đã có những thành công nhất định.
Tuy nhiên, hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và của Sở giao dịch I nói riêng còn nhiều
hạn chế, doanh số còn thấp, loại hình dịch vụ này chưa được quan tâm đúng mức.
Do vậy, việc thúc đẩy hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu trở thành một đòi

Như vậy chúng ta có thể hiểu về tín dụng như sau:
- Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả lẫn nhau.
- Theo các nhà kinh tế: tín dụng là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ
sử dụng vốn lẫn nhau giữa các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế
hàng hoá.

4
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
- Một định nghĩa khác về tín dụng: Đó là một giao dịch giữa hai bên, trong
đó một bên (trái chủ hay người cho vay) chu cấp tiền hoặc hàng hoá hoặc
dịch vụ dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai ở phía bên kia.
Từ các định nghĩa trên ta thấy có yếu tố thời gian vì vậy sẽ có rủi ro, bất trắc
và cần có sự tín nhiệm của hai bên đương sự đối với nhau. Hai bên dựa vào sự tín
nhiệm, sử dụng tín nhiệm của nhau nên có danh từ tín dụng.
2. Tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng (TDNH) là một khái niệm kinh tế hơn là pháp lý, các
hành vi TDNH có cùng một logic kinh tế: hứng chịu rủi ro cho một người mà ngân
hàng đã tin tưởng ứng vốn cho vay, nhưng nó không chỉ gồm một giao dịch về
pháp lý mà nhiều loại (cho vay, bảo lãnh, bảo chứng…). Luật ngân hàng các nước
định nghĩa tín dụng như sau: “Cấu thành một nghệp vụ tín dụng bất cứ tác động
nào mà qua đó, một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho một người khác dùng hoặc
cam kết bằng chữ ký cho một người này như bảo đảm, bảo chứng hay bảo lãnh mà
có thu tiền”. Định nghĩa này nêu ra 3 trường hợp:
+ Cho vay tiền.
+ Tín dụng dựa trên việc nhượng trái quyền.
+ Tín dụng chữ ký.
Có thể hiểu tổng quát: TDNH là hình thức tín dụng có sự tham gia của các
ngân hàng trung gian, đóng vai trò là người trung gian trong hoạt động tín dụng này


nghiệp xuất nhập khẩu. Do khả năng tài chính có hạn mà các doanh nghiệp không
phải lúc nào cũng đủ vốn thu mua chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh ra quan
hệ vay mượn và sự giúp đỡ tài trợ của các ngân hàng.
Quan hệ giao thương quốc tế đặt ra những vấn đề tế nhị, đôi khi phức tạp,
nên những nghiệp vụ thương mại đòi hỏi sự tham gia của ngân hàng đem lại cho
các nhà hoạt động ngoại thương sự hiểu biết kỹ thuật và chỗ dựa tài chính trong
lĩnh vực quan trọng này.
Có thể nói sự ra đời của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một yêu cầu tất
yếu khách quan, gắn liền với các quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước với
nhau.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của đất nước. Cùng với
sự phát triển của ngoại thương và hệ thống ngân hàng, hoạt động hỗ trợ xuất nhập
khẩu của ngân hàng phát triển ngày càng đa dạng và phong phú:

7
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
- Hình thức đơn giản đầu tiên là ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các
đơn vị nhập khẩu như cho vay để bổ sung vốn lưu động, thu mua chế biến
sản xuất hàng xuất khẩu theo các hợp đồng đã được ký kết, cho vay để
thanh toán các nguyên liệu, hàng hoá, vật tư nhập từ nước ngoài.
- Từ hình thức cho vay ngắn hạn là chủ yếu, ngân hàng đã mở rộng trung,
dài hạn để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu.
Ngân hàng cho vay để mua sắm máy móc thiết bị, cải tiến công nghệ, ứng
dụng thành tựu khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng
năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới.
- Ngân hàng còn thực hiện cho vay gián tiếp, đứng ra bảo lãnh để vay vốn
nước ngoài cho các đơn vị xuất nhập khẩu, nhờ đó các doanh nghiệp có
thể vay vốn mà không phải thế chấp hay cầm cố tài sản, bảo lãnh mở L/C

9
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
nên thặng dư có thể xuất khẩu sang các nước khác, góp phần tăng ngoại tệ cho đất
nước để nhập khẩu các mặt hàng còn thiếu và để trả nợ.
Như vậy, do nhu cầu phát triển kinh tế mà phát sinh nhu cầu trao đổi, giao
dịch hàng hoá giữa các nước với nhau hay nói cách khác hoạt động xuất nhập khẩu
là yêu cầu khách quan của nền kinh tế.
2. Vai trò của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của đất nước.
2.1 Đối với nền kinh tế đất nước
- Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại tạo điều kiện cho hàng
hoá xuất nhập khẩu lưu thông trôi chảy. Thông qua tài trợ của ngân hàng,
hàng hoá XNK theo yêu cầu của thị trường được thực hiện thường xuyên,
liên tục đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế.
- Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp
phát triển, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm động cơ thúc đẩy nền
kinh tế. Doanh nghiệp có sự giúp đỡ của ngân hàng có vốn để mở rộng
sản xuất kinh doanh, hiện đại hoá trang thiết bị làm tăng năng suất lao
động. Doanh nghiệp phát triển chính là kinh tế đất nước phát triển.
2.2 Đối với doanh nghiệp

10
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
- Nhờ sự giúp đỡ của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp,
giúp doanh nghiệp có thể tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị
trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao
động, giảm tỷ lệ thất nghiệp đồng thời hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho

cầu của doanh nghiệp và mở rộng hoạt động của mình.
3. Nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
3.1. Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu:
Việc thực hiện xuất khẩu hàng hoá, máy móc thiết bị, công nghệ thường kéo
dài từ nhiều tháng cho tới vài năm, thông thường nhu cầu tài trợ thường nảy sinh ở
nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể:
+ Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại các
hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Đây là giai đoạn đầu tiên và có ý nghĩa
quyết định đối với việc thực hiện các bước sau của cả hoạt động xuất khẩu. Để
hoàn thành tốt giai đoạn này, các chuyên gia phải thực hiện các chuyến đi dài ngày

12
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
và tiến hành nhiều cuộc đàm phán, phải làm ra hàng mẫu và mô hình để trưng bày,
giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các tài liệu thiết kế và tính toán chính xác
cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt động này không nhỏ, đặc biệt với
các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn hạn hẹp.
+ Giai đoạn đưa ra đề nghị chào hàng: Các đề nghị chào hàng trong khuôn
khổ đấu thầu quốc tế thường được để kèm theo bản bảo đảm đấu thầu của một ngân
hàng có uy tínn trong giao dịch quốc tế. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng
cần được sự giúp đỡ của ngân hàng.
+ Giai đoạn ký kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có uy tín
cao ở nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng hoặc bảo đảm
hoàn thành công trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc giao hàng hoặc hoàn
thành công trình không đúng như thoả thuận.
Trong trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập
khẩu là người nước ngoài đang gặp khó khăn và không có khả năng đặt cọc từ
nguồn vốn riêng của mình thì nhà xuất khẩu có thể đề nghị ngân hàng của mình
một tài trợ đặt cọc có lợi cho đối tác thương mại của mình. Ngoài ra, khi ký kết hợp

mua hàng khi khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy, về phía nhà nhập
khẩu cũng hình thành nhu cầu tài trợ trên nhiều mặt.
+ Giai đoạn trước khi ký kết hợp đồng: ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu
cần có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu của
mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp.
+ Giai đoạn sau khi ký kết hợp đồng: Sau khi ký kết được hợp đồng, các nhà
nhập khẩu cần được tài trợ để đặt cọc hoặc tạm ứng cho nhà xuất khẩu. Ngoài ra,
nhiều khi nhà nhập khẩu còn phải nhờ ngân hàng đứng ra bảo đảm để tìm nguồn tài
trợ ở nước ngoài.
+ Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập
khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho nhà xuất khẩu
hay tài trợ cho các công việc ở địa phương để chuẩn bị cho đầu tư.
+ Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng
hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà
nhập khẩu.
+ Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất trình
chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường nhà nhập
khẩu chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ
được.

15
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
+ Xử lý tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp thì
nhà nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian nhập hàng
về tới khi hàng hoá được tiêu thụ.
Nếu sản phẩm là những dây chuyền công nghệ để sản xuất thì nhà nhập
khẩu sẽ có nhu cầu được tài trợ cho giai đoạn từ khi sản xuất sản phẩm mới tới khi
tiêu thụ được các sản phẩm làm ra và thu được tiền hàng.
4. Mối quan hệ giữa hoạt động xuất nhập khẩu với hoạt động kinh

định của pháp luật đều cố gắng tạo ra sự khác biệt cho ngân hàng của mình. Đối
với hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu cũng vậy, dựa vào tiềm lực của mình
cùng với mục tiêu thu hút khách hàng, tối đa hoá lợi nhuận, phân tán rủi ro các
ngân hàng cũng lựa chọn các hình thức tín dụng khác nhau đáp ứng kịp thời mọi
nhu cầu tài chính. Ngân hàng đã trở thành một người bạn đồng hành không thể

17
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
thiếu của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong quá trình hội nhập vào nền kinh
tế thế giới.
1. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu:
Ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho các cơ sở xuất khẩu dưới các
hình thức sau:
1.1. Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ.
Sau khi lập xong bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm… nhà xuất
khẩu sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền. Ngân hàng của nhà xuẩt khẩu
sẽ chuyển đến ngân hàng của nhà nhập khẩu (hoặc ngân hàng giao dịch) với chỉ thị
giao chứng từ khi đã thanh toán (điều kiện D/P) hoặc chấp nhận một hối phiếu đòi
nợ kèm theo (điều kiện D/A). Tuy vậy, thời gian để có tiền thanh toán do nhà nhập
khẩu trả làm cho xuất khẩu có thể thiếu vốn tạm thời. Nhà xuất khẩu lúc này có thể
yêu cầu ngân hàng đáp ứng một phần giá trị bộ chứng từ nhờ thu làm đảm bảo.
Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu gần giống với chiết
khấu chứng từ nhưng có một số điểm cần phân biệt như sau:
- Ngân hàng không cho vay toàn bộ giá trị hối phiếu mà chỉ đáp ứng trước
một phần.
- Nhà xuất khẩu không phải chịu tỷ lệ chiết khấu 10% chi phí hối phiếu
như chiết khấu vì nhà xuất khẩu chỉ cần một phần giá trị hối phiếu.

18

với điều kiện của L/C, các ngân hàng cũng có quyền đòi số tiền này ở ngân hàng
mở L/C.
1.3. Tín dụng chiết khấu hối phiếu.
ở hình thức này ngân hàng mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán
tức là mua lại các khoản nợ phải đòi.
Lượng tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng là giá trị hối phiếu sau
khi trừ đi chi phí chiết khấu và các khoản lệ phí…Chi phí chiết khấu được xác định
theo công thức:
T
ck
= M *
(1-

L
ck

*
t ) – P
36.000
T
ck
: Giá trị chiết khấu M: mệnh giá hối phiếu
P: Lệ phí t: thời gian chiết khấu
L
ck
: lãi chiết khấu

20
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

1. Nhà xuất khẩu sau khi giao hàng, chuyển chứng từ vận chuyển và hối
phiếu đòi nợ tới nhà nhập khẩu.
2. Nhà nhập khẩu chấp nhận hối phiếu và chuyển hối phiếu đã chấp nhận
cho nhà xuất khẩu.
3. Nhà xuất khẩu đề nghị ngân hàng của mình cấp tín dụng trên cơ sở hối
phiếu.
4. Ngân hàng xuất khẩu đồng ý cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu (ghi có vào
tài khoản của nhà xuất khẩu sau khi đã trừ đi chi phí chiết khấu và lệ phí
nhờ thu).
5. Ngân hàng xuất khẩu đem hối phiếu đến Ngân hàng Trung ương để tái
chiết khấu và thu hồi khoản tín dụng đã cấp cho nhà xuất khẩu.

22
Ngân h ngà
nh NKà
Ngân h ngà
nh XKà
Ngân h ng Trungà
ương ở nước nhà
xuất khẩu
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
6. Khi tới hạn thanh toán, Ngân hàng Trung ương chuyển hối phiếu cho nhà
nhập khẩu và đề nghị thanh toán.
7. Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu cho nhà nhập khẩu và đề
nghị thanh toán.
8. Nhà nhập khẩu chấp nhận thanh toán và cho phép ngân hàng ghi nợ vào
tài khoản của mình.
9. Ngân hàng nhà nhập khẩu ghi có vào tài khoản ở Ngân hàng Trung ương,
chi phí hối phiếu sau khi đã trừ đi lệ phí nhờ thu và thông báo khoản thu

cầu về vốn tạm thời để trang trải những nhu cầu sinh hoạt còn cho vay dài hạn để
cung cấp tiền đầu tư vào máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng… Thông thường, các nhà
XNK vay ngắn hạn để chi trả tiền lương, chi phí vận chuyển, thu mua hàng xuất

24
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
khẩu, trả tiền hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp lại sử dụng tín dụng
dài hạn để mua sắm trang thiết bị hiện đại, nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá
trình sản xuất kinh doanh.
Ưu điểm:
- Cho vay theo phương thức này được áp dụng trong mọi lĩnh vực, mọi đối
tượng, mọi cá nhân trong nền kinh tế khi có nhu cầu đều có thể đến ngân
hàng để xin được cấp vốn. Sau khi xem xét hồ sơ thấy khách hàng có đủ
mọi yêu cầu trong nguyên tắc tín dụng ngân hàng đều có thể tiến hành
cho vay.
- Cho vay theo phương thức này bao giờ cũng phải có tài sản để bảo đảm
cho món vay. Vì vậy nói chung khản vay khá an toàn.
Nhược điểm:
Khó khăn trong việc định giá tài sản tài chính, đặc biệt là khi bán chúng vì
giá cả thị trường thường xuyên biến động, hàng hoá, tài sản có thể bị hỏng hóc, mất
mát.
- Thanh toán “factoring” và “forfaithing”:
+ Factoring là một hình thức tài chính trong hoạt động xuất khẩu. Đó là hoạt
động mua bán những khoản thanh toán chưa đến hạn và ngắn hạn từ các hoạt động
xuất khẩu, cung ứng hàng hoá, dịch vụ. Đặc điểm nổi bật của nghiệp vụ này là tính
miễn truy đòi tương đối đối với nhà nhập khẩu hoặc người sở hữu trước đó nếu các

25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status