Tài liệu Luận văn tốt nghiệp: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN” - Pdf 90



Luận văn tốt nghiệp: “Phân tích tính hiệu quả sử dụng
vốn và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
Nhà máy đóng tàu Hạ Long ”

1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá
nền kinh tế nước ta đòi hỏi cần có một khối lượng vốn rất lớn. Điều đó tạo
điều kiện cho các Ngân hàng thương mại thực hiện vai trò “trung gian tài
chính” của mình. Tuy nhiên trong một vài năm gần đây các hoạt động của
ngân hàng có xu hướng chững lại và xuất hiện tình trạng ứ đọng vố
n trong khi
các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế lại đang nằm trong tình trạng thiếu
vốn để tổ chức sản xuất và thực hiện các dự án.
Nguyên nhân của tình trạng trên thì rất nhiều nhưng một trong những
nguyên nhân chủ yếu đó là chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án
đầu tư tại các ngân hàng chưa được quan tâm một cách đúng mức, hoạt động
cho vay còn nặng về trường hợp “ bả
o đảm vốn vay bằng tài sản thế chấp”
Qua thời gian thực tập tại Sở Giao Dịch NHNoVN em nhận thấy đây

TÀI CHÍNH CỦA NHTM
I. ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ.
Trong hoạt động quản lý đầu tư và xây dựng ở nước ta hiện nay cũng
như trong hoạt động Ngân hàng thường xuất hiện các cụm từ “ dự án đầu
tư”, “hoạt động đầu tư”... để đi sâu vào lĩnh vực này ta cần hiểu ý nghĩa của
thuật ngữ.
1.Hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư hay ngắn gọn là đầ
u tư hiểu theo nghĩa rộng nhất là
quá trình sử dụng các nguồn lực để đạt được những mục tiêu nhất định trong
một khoảng thời gian nhất định.
Trong lĩnh vực kinh tế, hoạt động đầu tư được hiểu một cách ngắn gọn
là hoạt động bỏ vốn nhằm thu lợi trong tương lại. “Vốn” ở đây được hiểu là
toàn bộ
vốn bằng tiền mặt, giá trị thiết bị, nhà xưởng, tài nguyên, đất đai... và
“lợi” được hiểu là lợi nhuận và các lợi ích kinh tế khác.
2. Dự án đầu tư.
Theo nghĩa rộng dự án đầu tư là tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù
với những mục tiêu, phương pháp và phương tiện để đạt được trạng thái mong
muốn.
Về nội dung, dự án đầu t
ư là tổng thể các hoạt động dự kiến với các
nguồn lực và chi phí cần thiết, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch
thời gian và địa điển xác định để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối
tượng nhất định nhằm thực hiện mục tiêu lợi nhuận hoặc những mục tiêu kinh
tế
xã hội nhất định.
Trong hoạt động thẩm định cho vay của ngân hàng thì : Dự án đầu tư là
một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải taọ
những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến

khác, đầu tư luôn là hoạt động có tính chất lâu dài, bởi vì các hoạt động đầu tư
thường luôn có số lượng vốn bỏ ra rất lớn do đó để thu hút đủ vố
n đầu tư và
sinh lời thì cần phải có một khoảng thời gian nhất định. Đây là đặc trưng có
ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư.
Do tính chất lâu dài nên sự trù liệu ban đầu đều là dự tính, chịu một xác
suất biến đổi nhất định do nhiều yếu tố. Chính điều này là một trong những
vấn đề hệ trọng tính đến trong mọi nội dung phân tích,
đánh giá quá trình
thẩm định dự án.
3.3. Là hoạt động luôn cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi
ích trong tương lai.
Đầu tư về phương diện nào đó là một sự hy sinh lợi ích hiện tại đánh
đổi lấy lợi ích trong tương lai (vốn để đầu tư không phải là nguồn lực để
dành) Vì vậy luôn có sự so sánh, cân nhắc giữa lợi ích hiện tại và lợi ích trong
tương lai. Rõ ràng nhà
đầu tư mong muốn và chấp nhận đầu tư chỉ trong điều
kiện lợi ích thu trong tương lai lớn hơn lợi ích hiện tại mà họ tạm thời phải hi
sinh.
3.4. Hoạt động đầu tư là hoạt động mang nặng rủi ro.
Hoạt động đầu tư là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro bởi vì kết quả
của hoạt động đầu tư là không th
ể dự tính một cách khách quan tại thời điểm
Quyết định đầu tư, Quyết định đầu tư phần nào mang tính chủ quan của nhà
đầu tư và không thể lường hết những thay đổi của môi trường tác động vào dự
án trong tương lai (thay đổi về thị trường, về sản phẩm đầu vào, đầu ra, lạm
phát...). Vì vậy, chấp nhận rủi ro như là bản năng của nhà đầu t
ư. Tuy nhiên
nhận thức rõ ràng điều này nhà đầu tư cũng có những cách thức, biện pháp để
ngăn ngừa hay hạn chế để khả năng rủi ro xảy ra là thấp nhất.

Vậy: Thẩm định dự án đầu tư là việc phân tích, đánh giá, xem xét một
các khách quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực
tiếp tới tính khả thi của một dự án để từ đó ra các Quyết định đầu tư
, cho phép
đầu tư hay ra các Quyết định tài trợ.
Về phía chủ đầu tư:
Việc thẩm định dự án đầu tư sẽ giúp chủ đầu tư lựa
chọn được phương án đầu tư tối ưu, có tính khả thi cao, phù hợp với điều
kiện, khả năng tự có cũng như khả năng huy động các nguồn vốn, và giảm chi
phí chuẩn bị cũng như tiến hành hoạt động đầu tư đem lại lợi nhuận cao trong
t
ương lại để Quyết định đầu tư.
Về phía các cơ quan quản lí vĩ mô của nhà nước
: Việc thẩm định dự án
đầu tư sẽ giúp các cơ quan này đánh giá được tính cần thiết và phù hợp của dự
án với chiến lược, chương trình, kế hoạch kinh tế quốc dân thông qua các
chương trình phát triển liên kết, kế hoạch sản xuất ngành, địa phương, các
công trình hỗ trợ trên các mặt: Mục tiêu, quy hoạch và hiệu quả. Nó giúp xác
đinh được cái lợi, cái hại của dự án trên các mặt khi đi vào hoạ
t động như
công nghệ cũ, vốn, gây ô nhiễm môi trường và các lợi ích kinh tế xã hội khác.

5
Về phía các nhà tài trợ: Việc thẩm định sẽ giúp họ đánh giá, xem xét lại
các chi phí và hiệu quả của dự án, các luồng dịch chuyển về giá trị trên cơ sở
đó có chấp nhận các kế hoạch trả nợ không và từ đó có Quyết định tài trợ
đúng đắn. Điều này giúp cho các nhà tài trợ hỗ trợ chủ dự án sử dụng đồng
vốn có hiệu quả đồng thời bảo đảm s
ự an toàn tài chính cho chính nhà tài trợ.
Tóm lại, thẩm định dự án đầu tư là một công việc cần thiết, mặc dù đôi

chọn thiết bị, công suất và dự kiến khả năng tiêu thụ. Phân tích và dự đoán
đúng về thị trường là một công việc khó khăn, song độ chính xác của phân
tích thị trường sẽ ảnh hưởng tới thành công của dự án.
+ Thẩm định khía cạ
nh kỹ thuật của dự án:
Mục tiêu thẩm định ở đây là để kiểm tra việc xác định cấu hình kỹ thuật
cũng như những phương diênj cốt yếu khác định hình trên dự án. Câu hỏi đặt
ra ở đây cần trả lời là liệu dự án có thực hiện về mặt kỹ thuật hay không.
Thông tin vè đời công nghệ hữu dụng của dự án. Thường thì khía cạnh này
được quan tâm ngay từ khi lập dự án, vì các chủ
đầu tư phải ta được Quyết
định việc lựa chọn trang thiết bị, máy móc, quy trình công nghệ.

6
Nhưng các nhà thẩm định độc lập sẽ kiểm tra công cụ sử dụng trong
tính toán. trong đó lưu ý đặc biệt đến các định mức kinh tế kỹ thuật. Đối với
định mức kinh tế - kỹ thuật phải rà soát cho phù hợp với điều kiện cụ thể của
dự án như:
- Kiểm tra những sai sót trong tính toán: tính toán không đúng, không
đủ, không phù hợp.
- Kiểm tra tính phù hợp của công nghệ thiết b
ị đối với dự án, cũng
như tác động của chúng đến môi trường.
+ Thẩm định khía cạnh nhân lực và tổ chức quản lí.

Việc thẩm định dự án để cho được hiệu quả thì không thể chỉ hạn chế
trong việc đánh giá về tài chính và kinh tế các chi phí và lợi ích với giả thiết
rằng dự án sẽ được xây dựng và hoạt động đúng kỳ hạn. Điều này giả thiết là
phải có sự hỗ trợ về mặt hành chính để thực hiện dự án, điều này đặc biệt
quan trọng đối với các nước đang phát triển, mà ở nhiều nước việc đó lại hoàn

quyền (dự án có tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, cải
thiện đời sống...)

7
- Ai là đối tượng được hưởng lợi của dự án và ai sẽ là người chịu chi
phí của dự án và hưởng lợi hay chịu chi phí theo cách nào ?
Một điều lưu ý khi thẩm định là phân tích kinh tế có tác động môi
trường của dự án đầu tư. Đã đến lúc người ta quan tâm đến sự “phát triển bền
vững, phát triển lâu bền”. Vấn đề không phải là chúng ta buộc phải lựa chọn
giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, mà phải là tìm cách phát triển
một cách phù hợp, hài hoà để đảm bảo được phát triển lâu bền. Vì vậy, việc
đánh giá tác động đến môi trường của các dự án trở thành một nhu cầu bức
thiết và bắt buộc với các dự án đầu tư.
Toàn bộ quá trình thẩm định thường là rất phức tạp, có tính liên ngành,
đòi hỏi sự liên kết, hợp tác của nhiề
u chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau: kinh tế, kĩ thuật, môi trường mới có thể tiến hành thực hiện có hiệu quả.
Do quá trình thẩm định gồm nhiều giai đoạn nên việc thẩm định các
khía cạnh trên sẽ được tiến hành ở bất kỳ giai đoạn nào. nếu là giai đoạn soạn
thảo thì do các nhà lập dự án thẩm định. Song một dự án hình thành xong,
phân tích các khía cạnh nêu trên phải được tiế
n hành một cách nghiêm túc và
khách quan, để trên cơ sở đó ra Quyết định chứ không phải ngược lại chỉ là
hình và nhằm chứng minh cho một Quyết định đã có. Chính vì vậy mà các cơ
quan tư vấn hoặc chuyên gia được giao trách nhiệm thực hiện công việc thẩm
định, người thực hiện công việc không thể là người của dự án.
Thẩm định dự án cần phải được tiến hành ở tất cả các khía c
ạnh nêu
trên. Nó nằm tăng cường mức độ chính xác của việc tính toán các biến cố chủ
yếu mà chủ dự án đã lập. Việc đưa ra các kết luận đánh giá trên các khía cạnh

- Dự trù chi phí sản xuất hàng năm.
- Dự trù doanh thu lỗ lãi.
- Dự trù bảng cân đối thu chi
- Kế hoạch vay vốn và trả nợ.
- Dự trù bảng cân đối tài sản.
κ Xác đị
nh tổng nhu cầu vốn đầu tư của dự án:
Tổng vốn đầu tư của dự án đã được các chủ đầu tư dự kiến, song Ngân
hàng cần tiến hành xem xét lại, điều này quan trọng vì vốn đầu tư đủ sẽ giúp
dự án được thực hiện một cách thuận lợi, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, vốn
đầu tư thiếu sẽ gây cho hoạ
t động của dự án sau này và ngược lại thừa vốn
đầu tư có thể gây lãng phí vốn và làm giảm hiệu quả tài chính của dự án. Tổng
vốn đầu tư là tập hợp toàn bộ các chi phí góp phần tạo nên thực trạng công
trình và bảo đảm cho công trình sẵn sàng đưa vào khai thác, sử dụng.
Thành phần vốn gồm có vốn cố định và vốn lưu động :
+ Vốn cố định:
Nhằm tạo ra năng lực mới tăng thêm để đạt mục tiêu
của dự án. Bao gồm:
 Vốn chuẩn bị đầu tư gồm các chi phí điều tra, khảo sát, lập, thẩm
định dự án đầu tư.
 Vốn chuẩn bị xây dựng bao gồm:
Chi phí ban đầu về đất đai (đền bù, giải phóng mặt bằng, chuyển quyền
sử dụng đất).
Chi phí khảo sát, thi
ết kế, lập và thẩm định thiết kế, tổng dự toán. chi
phí đấu thầu, hoàn tất các thủ tục đầu tư (cấp giấy phép xây dựng, giám định,
kiểm tra thiết bị...)
Chi phí xây dựng đường điện, nước, thi công, lán trại thi công.
 Vốn thực hiện đầu tư:

- Vốn vay.
Ngân hàng phải kiểm tra tính hiện thực của v
ốn tự có cuả doanh
nghiệp, xem xét tỉ lệ:( vốn tự có / tổng vốn đầu tư ) để đo lường được rủi ro.
Với công trình đầu tư bằng nhiều nguồn vốn thì cần phải có xác nhận của cơ
quan quản lí từng nguồn vốn nói trên ngân hàng chỉ cho vay vốn còn thiếu:
Nhu cầu
Tổng nhu cầu
Vốn tự Vốn ngân Vốn khác
vay vốn
=
vốn đầu tư
-

-
sách
-
(nếu có)
κ Tính toán hiệu quả tài chính của dự án:
+ Xem xét các biểu tính toán của doanh nghiệp.
- Biểu tính vốn đầu tư theo các khoản mục xây lắp (khối lượng, đơn
giá và chi phí)
- Chi phí mua sắm thiết bị (loại thiết bị, số lượng, đơn giá).
- Chi phí khác.
- Biểu tính vốn lưu động.
- Tổng chi phí sản xuất.
- Doanh thu.
- Dự trù lỗ lãi.
- Thời gian hoàn vố
n.

sử dụng được vố
n, còn người cho vay đòi hỏi phải được trả lãi.
κ
Lãi kép:
Là phương pháp tính lãi trong đó lãi của kỳ trước được nhập vào gốc để
tính lãi tiếp cho kỳ sau:
FV = PV ( 1 + r )
n

Trong đó:
PV: giá trị hiện tại (vốn ban đầu).
FV: giá trị tương lai (số tiền thu được).
n: số kỳ tính lãi
r : lãi suất.
κ
Chiết khấu:

11
Trong các dự án đầu tư việc thu được lợi ích và bỏ các chi phí thường
xảy ra vào các giai đoạn khác nhau. Vì đồng tiền có giá trị thời gian, nên để
có thể so sánh chi phí và lợi ích xảy ra ở các khoảng thời gian khác nhau,
chúng cần phải quy đổi đồng tiền ở các thời điểm về cùng một thời điểm hoặc
về hiện tại, hoặc về tương lai, hoặc về bất kỳ một th
ời điểm nào đó thông qua
một hệ số quy đổi. Hệ số này gọi là hệ số chiết khấu và nó phụ thuộc vào tỷ lệ
chiết khấu một thông số biểu hiện sự giảm giá trị của dòng tiền theo thời gian.

1
Hệ số chiết khấu =
( 1+ r)

ử vốn vào
thời điểm hiện này là rất khan hiếm so với trước đây. Trong những tình huống
như vậy, ta sẽ thấy rằng chi phí của vốn vào thời điểm hiện tại sẽ cao một

=
+

+−=
n
t
t
r
CtBt
CoNPV
1
)1(
)(

12
cách bất bình thường và như vậy tỷ lệ chiết khấu theo thời gian sẽ giảm dần
trong lúc cung và cầu của vốn trở về mức bình thường. Ngược lại, nếu hiện tại
có nhiều tiền vốn, chúng ta dự kiến chi phí của vốn và tỷ lệ chiết khấu sẽ
xuống thấp hơn mức trung bình dài hạn. trong trường hợp này, chúng ta có lẽ
dự kiến tỷ lệ chi
ết khấu sẽ tăng lên trong khi cung cầu vốn dần quay trở về xu
hướng dài hạn.
Nếu có lí do để tin rằng tỉ lệ chiết khấu thay đổi một cách có thể dự
đoán trước được thì giá trị hiện tại ròng của một dự án tính như sau:
B1- c1 B2-C2 Bn-Cn
NPV = -Co +

NPV < 0 loại bỏ dự án.
NPV = 0 doanh nghiệp sẽ không thiên vị trong việc chấp thuận
hay loại bỏ dự
án mà tuỳ theo sự cần thiết của nó đối với doanh nghiệp mà ra
Quyết định.
Trong trường hợp dự án đầu tư bị hạn chế bởi ngân sách, nguồn tài trợ.
Trong giới hạn một ngân sách đã được ấn định cần lựa chọn trong số các dự
án hiện có nhóm dự án nào có thể tối đa hoá giá trị hiện tại ròng.
NPV = NPV1 + NPV2 + ........... = Max ≤ giới hạn ngân sách.
NPV: giá trị hiện tạ
i ròng tối đa của nhóm dự án lựa chon.
NPV1, NPV2... giá trị hiện tại ròng của dự án 1, dự án 2 ....
Trong trường hợp lựa chọn một trong sốdự án loại trừ nhau. Trong tình
huống không bị giới hạn bới ngân sách, nhưng ta phải lựa chọn một dự án
trong số các dự án loại trừ nhau, ta luôn chọn dự án sinh ra giá trị hiện tại
ròng lớn nhất: Max ( NPV1, NPV2....NPVn).
κ

Ưu điểm của phương pháp NPV:
- NPV đo lường trực tiếp phần lợi nhuận mà dự án đóng góp vào tài
sản của chủ đầu tư.
- Sử dụng chi phí cơ hội về sử dụng vốn làm tỷ lệ chiết khấu.
-

NPV giả định rằng những khoản thu nhập tạm thời được tái đầu tư
với tỷ lệ tối đa hoá lợi nhuận của chủ đầu tư.
-

Quyết định chấp thuận hay từ chối và xếp hạng dự án phù hợp với
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cuả chủ đầu tư.


=
+

+− 0
1
IRR
CtBt
C

Trong đó
IRR: tỷ suất nội hoàn (cần xác định).
Co : vốn đầu tư ban đầu
Bt thu nhập trong năm t
Ct : chi phí trong năm t
n: thời gian phân tích dự án.
Việc giải phương trình trên theo một phương pháp toán học nào đó là
hết sức khó khăn (trường hợp n lớn) nhiều khi là không thực hiện được, để
xác định IRR một cách tương đối chính xác ta có thể sử dụng phương pháp
nội suy, kết quả như sau:
IRR =
()
21
1
121
NPVrNPVr
NPVr
xrrr

−+


IRR > chi phí cơ hội của vốn ⇒ chấp nhận dự án.

14

IRR < chi phí cơ hội của vốn ⇒ bác bỏ dự án.

IRR = chi phí cơ hội của vốn ⇒ tuỳ theo những yêu cầu khác
đối với dự án, chủ dự án có thể chấp nhận hay bác bỏ.
-Trường hợp các dự án loại trừ nhau thì chúng ta chọn dự án có IRR
cao nhất. Tuy nhiên nếu IRR cao nhất nhỏ hơn tỷ lệ sinh lời cần thiết của dự
án (hay chi phí cơ hội của vốn) thì không dự án nào trong các dự án đó không
được chấp nhận.
κ
Ưu điểm của phương pháp IRR:
- Đo lường bằng tỉ lệ phần trăm, nên dễ dàng so sánh với chi phí sử
dụng vốn, nó chỉ rõ tỷ lệ lãi vay tối đa mà dự án có thể chịu đựng được.
Không có phương pháp nào khác để cung cấp thông tin quan trọng như vậy và
đây chính là ưu điểm rất quan trọng của tiêu chuẩn IRR.
- Tỷ suất nội hoàn là một tiêu chuẩn hay được sử dụng để mô tả tính
hấp dẫn c
ủa dự án đầu tư, vì đó là một tiêu chuẩn hữu ích để tổng kết tính
doanh lợi của dự án. Quyết định chấp thuận hay từ chối của cổ đông.
- Trong một số trường hợp, nó cho phép tránh được nhữngkhó khăn khi
phải xác định trước lãi suất thích hợp.
κ
Nhược điểm của phương pháp IRR:
- Việc áp dụng tiêu chuẩn này có thể không chắc chắn nếu tại các
khoản cân bằng thu chi thực âm đáng kể trong giai đoạn vận hành của dự án,
tứcl à đầu tư thay thế lớn hơn.


Dễ áp dụng và khuyến khích đầu tư vào các dự án có thời gian
hoàn vốn nhanh.
-

Nếu sử dụng hợp lý, nó có thể tạo ra một hình ảnh ban đầu về dự
án.
+ Tuy nhiên, phương pháp này còn có nhiều nhược điểm.
-

Phần thu nhập ngoài thời gian hoàn vốn bị bỏ qua hoàn toàn mà
không được tính trong dự án. Do đó không biết chính xác về doanh lợi của dự
án đầu tư.
-

Yếu tố rủi ro đối với luồng tiền tương lai của dự án không được
xem xét, đánh giá.
-

Không đo lường được tác động trực tiếp của dự án đối với thu
nhập của cổ đông.
-

Xếp hạng các dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận của chủ sở hữu.
-

Yếu tố thời gian của tiền tệ không được đề cập đến trong quá
trình tính toán (đối với thời gian hoàn vốn không chiết khấu).
+ Phương pháp tính :

xuất gia tăng, chi phí vận hành và bảo dưỡng, chi phí đẩu tư hay chi phí đầu
tư thay thế (nếu có). Việc xếp hạng hai dự án có thể trái ngược nhau tuỳ theo
cách người ta xử lý chi phí hiện thời (Current Cost).
1.2.5. Phương pháp theo tiêu chuẩn điểm hoà vốn (H) :
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu bằng chi phí bỏ ra. Phân tích
điểm hoà vốn được tiến hành nhằm xác định mức sản lượng sản xuất hoặc
mức doanh thu thấp nhất mà tại đó dự án có thể vận hành không gây nguy
hiểm tới khả năng tồn tại về mặt tài chính của no. Ngoài ra, phân tích điểm
hoà vốn còn giúp cho việc xem xét về mức giá cả mà dự án có thể chấp nh
ận
được (tức là dự án không bị lỗ, có đủ tiền mặt để hoạt động và có khả năng trả
nợ).
Phân tích điểm hoà vốn là sự phân tích mối quan hệ hữu cơ giữa chi phí
bất biến, chi phí khả biến và lợi nhuận sẽ đạt được.
Điểm hoà vốn theo quan điểm của nhà doanh nghiệp là điểm mà tại đó
mức sản lượng hoặ
c mức doanh thu đảm bảo cho dự án không bị lỗ trong năm
hoạt động bình thường.


=
=
+
+
=
n
t
t
r
Ct

: Tổng doanh thu ở điểm hoà vốn.
TR : Tổng doanh thu dự kiến trong năm của dự án.
TFC : Tổng chi phí cố định trong năm của dự án bao
gồm cả lãi vay.
P : Giá bán trên một đơn vị sản phẩm.
VC : Biến phí trên một đơn vị sản phẩm.
Đánh giá mức hoạt động của dự án ở điểm hoà vốn ở chỉ tiêu :
Các dự án có điểm hoà vốn càng thấp càng t
ốt vì điểm hoà vốn càng
thấp thì khả năng thu lợi nhuận càng cao, rủi ro thua lỗ càng thấp. Việc phân
tích hoà vốn được tiến hành cho từng dự án. Điểm hoà vốn khác nhau giữa
các ngành khác nhau.
+ Nhược điểm của phương pháp này :
Điểm hoà vốn chỉ nói lên mối quan hệ giữa khối lượng tiêu thụ dự kiến
và lợi nhuận cần đạt được ở mức giá nhất định. Tuy nhiên, s
ản phẩm của dự
án có thể bán theo nhiều giá khác nhau và điểm hoà vốn cũng khác nhau. Mặt
khác, thường thì một dự án có nhiều sản phẩm sẽ có nhiều giá bán khác nhau.
Vì vậy, việc xác định điểm hoà vốn trong những trường hợp nêu trên là rát
khó và trở nên phức tạp. Ngoài ra, trong quá trình phát triển dự án, khi phải
TR H Q hay
VC-P
TFC
Q
LToo
×==
TR H TR hay
P
VC
- 1


ảnh hưởng tới bảng cân đối tiền mặt trong dự án thì phân tích khả năng
thanh toán có nhiệm vụ đánh giá tình trạng tiền mặt trong suốt quá trình hạot
động của dự án, nó tính đến tất cả các khoản thu, chi bằng tiền (thu tiền bán
sản phẩm, chi trả nợ, trả cổ tức ...) của dự án. Trong bảng phân tích khả năng
thanh toán có 3 phân fchính : Dòng tiền vào, dòng tiền ra, tình trạng tiền mặt.
Dòng tiền vào : Bao gồm tất cả
những khoản thu bằng tiền mặt của dự
án (bán các sản phẩm, dịch vụ ...). Lưu ý là không phải toàn bộ giá trị sản
lượng của dự án là các nguồn thu bằng tiền mặt. Bởi vậy, khi tính dòng tiền
vào ta cần trừ đi phần sản lượng của dự án không được đem bán ngoài thị
trường.
Dòng tiền ra : Bao gồm tất cả các khoản chi bằng tiền mặt của dự
án
như chi mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân, thanh toán các khoản nợ và
lãi cho các khoản vay, trả chậm ...
Tình trạng tiền mặt :
Tình trạng tiền mặt của dự án có thể là dư thừa hay thiếu hụt tại một
thời điểm nào đó và được xác định trên cơ sở tổng các nguồn thu bàng tiền
mặt trừ đi tổng các khoản chi bằn tiền mặt tại thời đi
ểm đó. Tình trạng tiền
mặt được xem là tốt nếu đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản nợ
banưg tiền mạt và có một khoản dự trữ nhất định, trong trường hợp thâm hụt
ngân quỹ thì cần phải bù đắp bằng các khoản vay.

19
Sau khi đã đưa hết tất cả các khoản thuộc giao dịch tài chính vào đánh
giá dự án, người đánh giá có thể xem xét liệu :
- Vốn cổ phần và vốn vay dài hạn có đáp ứng đủ không ?
- Các khoản thiếu hụt tiền mặt có được giới hạn ở mức có thể trang trải

có của chủ dự án.
Trong đó :
Rd : Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu.
D : Giá trị các khoản nợ dài hạn.
h−u)së chñ (Vèn cã tù Vèn
nîlÖ Tû
e
C
D
Rd =

20
C
e
: Vốn chủ sở hữu.
Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu có thể dao động, nếu tỷ lệ nợ này thấp
hơn mức bình thường thì có thể dự án chưa tận dụng được nguồn vốn có thể
đi vay, tức là đòn bẩy tài chính hoạt động không hiệu quả. Ngược lại, nếu tỷ
lệ này là quá lớn thì sẽ đẩy dự án vào tình trạng có khả
năng mất khả năng
thanh toán, nghĩa là rủi ro rất cao.
Tuy nhiên, chúng ta không nên máy móc khi xác định cơ cấu vốn hợp
lý. Cơ cấu vốn cần được xác định trên cơ sở cân nhắc tới mức doanh lợi và
khả năng thanh toán của dự án. Một dự án có mức thu nhập cao và khả năng
thanh toán tốt có thể chấp nhận một tỷ lệ nợ vốn chủ sở hữu cao hơn m
ức
bình thường.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu
tư :
Thẩm định dự án đầu tư là ở ngân hàng thương mại có thể ví như “công

21
+ Lạm phát : Được hiểu là giá cả phần lớn các khoản mục đầu vào hoặc
đầu ra theo thời gian và gây sự thay đổi về tương quan giá cả. Mức tăng chính
xác của giá cả luôn luôn không thể nhận biết được. Giá cả còn lên xuống do
nguyên nhân của luật cung cầu, sở thích của người tiêu dùng.
Rõ ràng các biến số tài chính từ các bảng tài chính được đưa ra trong
dự án là yếu tố đầu vào trực tiếp hoặc gián tiếp của các tiêu chu
ẩn thẩm định
(NPV,IRR ... nêu trên) như : các thu nhập, các loại chi phí ... Các yếu tố này
thường liên quan đến giá cả. Vì vậy, việc xác định giá cả của các yếu tố trong
chi phí hay trong doanh thu của dự án sẽ có ảnh hưởng đến kết quả dự án.
Nếu các giá cả được cung cấp trong dự án là “giá cố định” – giá cố định
là giá không thay đổi theo thời gian – và nếu các giá cố định được sử dụng
trong suốt thời gian dự án xả
y ra, như thế người lập dự án sẽ đơn giản hoá
việc xây dựng các bản tóm tắt tài chính của một dự án nhưng nó cũng loại ra
khỏi sự phân tích các thông tin kinh tế và tài chính có thể ảnh hưởng đến
thành quả trong tương lai của dự án.
Nếu các giá cả của các yếu tố đầu vào và đầu ra trong thời gian hoạt
động của dự án được điều chỉnh theo một diễn biến mà nhà th
ẩm định giả
định cho các thời kỳ tương lai thì đó là “giá thực” – là giá có thể thay đổi
trong tương lai. Giá thực được dự đoán trong mức cung cầu sẵn có, và các yếu
tố ngoại lai có thể tác động lên chi phí sản xuất của nó. Sử dụng giá này sẽ
giúp cho việc xây dựng các biến số của bảng tài chính của dự án sẽ tin cậy
hơn, chính xác hơn, giúp cho nâng cao chất lượng các tiêu chuẩn thẩm định.
Việc l
ựa chọn sử dụng loại giá nào sẽ có ảnh hưuởng tích cực khác
nhau đến hiệu quả thẩm định tài chính dự án. Việc sử dụng giá cố định sẽ bỏ
qua tác động của lạm phát. Sử dụng giá thực phần nào nêu lên chiều hướng

khoản thanh toãn lãi suất thực. Vì vậy, các nhà ngân hàng khi thẩm định phải
xem xét liệu dự án có chịu được mức lãi suất dự tính này hay không ? Điều
này thật quan trọng cho việc đánh giá khả năng bền vững của dự án, vì lãi
suất danh nghĩa tăng sẽ làm giảm chi phí xuất quỹ tăng cao hơn trong suốt
nhữ
ng năm đầu của thời hạn hoàn trả có thể tạo ra những vấn đề khó khăn về
thanh toán chó dự án nếu nó không tạo ra đủ các luồng thu được nhập quỹ
trong kỳ.
Trong việc đánh giá một dự án, nhiều chuyên gia thẩm định cho rằng
việc cố gắng tối đa để dự báo “chính xác” tỷ lệ lạm phát là không cần thiết.
Điều thiết yếu là nhà thẩm định nên
đưa ra các giả thiết liên quan đến việc tài
trợ và hoạt động của dự án sao cho phù hợp vơi stỷ lệ lạm phát được giả thiết.
+ Những thay đổi trong công nghệ : Chất và lượng của đầu vào và đầu
ra dùng để đanh giá dự án được dự tính theo những tri thức hiện thời. Tuy
nhiên do khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển theo hướng ngày càng hiện
đãi dẫn đến sự ra đời những công nghệ mớ
i có thể làm thay đổi những dự tính
trước đó.
+ Công suất dự tính dùng trong khi đánh giá dự án có thể không bao
giờ đạt được điều đó, đến lượt nó sẽ ảnh hường đến chi phí vận hành cũng
như doanh thu. Vì có khi dự án chỉ đạt được NPV dương tại một công suất tới
hạn nào đó. Nếu công suất thực tế không đạt được mức đó thì dự án trở thành
không có hi
ệu quả.
+ Người ta thấy rằng : Vốn đầu tư cần thiết cho vốn cố đinh và vốn lưu
động thường bị tính toán, dự đoán hụt và thời gian thi công xây dựng, thời
gian chạy thử thường dài hơn đáng kể so với dự định. Điều này ảnh hưởng
đến vốn đầu tư, chi phí vận hành và cả thu nhập.
+ Xác định lãi suất chiết khấu thích hợp : Thay

trong dòng thu nhập ròng của dựa án có ít nhất một giá trị âm. Khi thu nhập
thuần trong tất cả các năm đều dương thì dù lãi suất lớn thế nào thì giá trị hiện
t
ại ròng vẫn dương. Vấn đề thứ hai và quan trọng hơn cả là có thể xảy ra tình
huống không phải có một mà là có nhiều tỷ suất nội hoàn, gây khó khăn cho
việc đánh giá dự án. Trong trường hợp này có thể sảy ra khi dự án có những
thu nhập ròng âm đủ lớn vào các năm sau thời kỳ đầu tư ban đầu, tức là
những năm sau khi dòng thu nhập đã trở thành dương. Điều này liên quan lớn
đến nhữ
ng khoản đầu tư thay thế lớn, hoặc những biến cố bất thường diễn ra
sau thời kỳ đần tư ban đầu.
Với những lý do nêu trên mà vấn đề đặt ra là chúng ta không chỉ xác
định tính hợp lý của một dự án từ khía cạnh phận tích hiệu quả vốn đầu tư và
khả năng tài chính của dự án mà phải phân tích độ nhạy cảm của dự án.
+ Phân tích độ nhạy c
ảm : Cho biết giá trị của các tiêu chuẩn hiệu quả
thay đổi ra sao khi có sự thay đổi giá trị của bất kỳ yếu tố nào (giá bán đơn vị,
chi phí đơn vị ...). Nó có thể được biểu thị như là sự thay đổi tuyệt đối dưới
dạng tiêu chuẩn hiệu quả theo một biến số hoặc một loạt biến số. Dự án nhạy
cảm với các yếu tố bấ
t định và cần dự tính chính xác các biến mà tử số ước
tính của chúng có thể có những sai sót đáng để ý. Việc phân tích độ nhạy cảm
được minh hoạ dựa trên cơ sở của phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV).
Trong thực tiễn, không cần phải phân tích sự thay đổi của một hến số
có thể mà người ta chỉ hướng việc phân tích vào các biến cốt lõi ảnh hưởng
nhiều nhất đến d
ự án hoặc vì chúng là những thông số lớn hoặc có khả năng
thay đổi đáng kể xung quanh trị số khả thi nhất.
Người ta có thể trắc nghiệm độ nhạy của giá trị hiện tại ròng (NPV) của
dự án giả định theo các phương án và trị số vốn đầu tư, giá cả đầu vào hay giá

nhạy của dự án đối với các thay đổi của biến này hay biến khác. Mặc dù phân
tích độ nhạy của dự án cũ
ng có những hạn chế của nó như phạm vi thay đổi
của mỗ biến thường có xác suất xuất hiện khác nhau. Hoặc những kết quả về
phân tích độ nhạy không đem lại cho người ra Quyết định một giải pháp rõ
ràng đối với vấn đề lựa chọn dự án. Song các nhà nghiên cứu lý thuyết và
thực hành nhận thấy rằng nó là một công cụ hữu ích, nó đem lại cho người
phân tích ý tưở
ng về một số điều không chắc chắn và hiệu quả của việc phân
tích này sẽ cao khi được bổ trợ những hình thức phân tích thích hợp khác tuỷ
vào điều kiện thực tế của từng dự án.
Tóm lại, việc lựa chọn các tiêu chuẩn phân tích tài chính phù hợp với
điều kiện của mỗi dự án là cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả, vừa kế
t hợp
được các mặt mạnh của các chi tiêu và vừa phù hợp với tình hình thực tế của
mỗi ngành, lĩnh vực hoạt động của dự án và của mỗi quốc gia cũng như điều
kiện cụ thể của ngân hàng.
2.2. Nhân tố con người :
Con người là chủ thể vừa là đối tượng của mọi hoạt động của con
người. Con người là nhân tố trung tâm và Quyết định đối với sự phát triển xã
hội nói chung. Do đó, nhân tố con người có ảnh hưởng Quyết định đến chất
lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Khoa hoạc kỹ thuật dù phát triển
mạnh mẽ đến đâu, nó chứng tỏ sức mạnh to l
ớn như thế nào cũng không thể
loại bỏ con người ra khỏi “quá trình sản xuất xã hội”. ở đây, con người là chủ
thể trực tiếp tổ chức và thực hiện các hoạt động thẩm định dự án đầu tư là kết
quả của việc đánh giá, xem xét dự án theo nhìn nhận chủ quan của người
thẩm định trên cơ sở khoa học và các tiêu chuẩn htẩm định khác nhau. Vì vậ
y,
hiệu quả của hoạt động thẩm định phụ thuộc vào chất lượng của nhân tố con


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status