Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước (lấy ví dụ ở địa bàn Hà Nội)” doc - Pdf 84



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG BAO BÌ
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ở
CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
NHÀ NƯỚC (LẤY VÍ DỤ Ở ĐỊA BÀN
HÀ NỘI) Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hành :
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của luận án
Bao bì là một trong những yếu tố quan trọng của sản phẩm. Nó xác định
khả năng bán/tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, nhưng bản thân nó không phải là
sản phẩm mà người tiêu dùng cần mua để thoả mãn nhu cầu vật chất của họ.
Từ xa xưa, người ta đã sử dụng bao bì, nhưng chủ yếu vớ
i mục đích để
chứa đựng, vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Sử dụng bao
bì để bảo quản sản phẩm, để tiêu thụ/bán sản phẩm không phải là mục đích cơ
bản khi nền kinh tế hàng hoá kém phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế phát
triển, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng, việc hình thành các đơn vị kinh
doanh thương mạ
i tách khỏi hệ thống tiêu thụ của các doanh nghiệp sản xuất thì
vấn đề bao bì trở nên quan trọng hơn đối với cả người sản xuất, người kinh

ơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng
bao bì trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nói chung và
các doanh nghiệp thương mại nhà nước nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu của luận án
 Làm rõ sự cần thiết của bao bì và sử dụng bao bì trong kinh doanh thương
mại nói chung và ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước nói riêng.
 Nghiên cứu tình hình sử dụng bao bì và ảnh hưởng tích cực của việc sử
dụng
đúng đắn, hợp lý bao bì đối với sự phát triển nền kinh tế và hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước.
 Đề ra các giải pháp chủ yếu để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng bao bì
ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp và bảo vệ môi trường sinh thái.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
 Đối t
ượng nghiên cứu của luận án là hiệu quả sử dụng bao bì trong kinh
doanh thương mại.
 Phạm vi nghiên cứu của luận án: Bao bì ở các doanh nghiệp thương mại
nhà nước trên địa bàn Hà Nội từ năm 1991 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
 Phương pháp so sánh, phân tích hệ thống, điều tra, thống kê kết hợp v
ới
khảo sát, sử dụng chuyên gia.
 Vận dụng các chính sách, đường lối của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực
kinh doanh, trong từng thời kỳ một cách có hệ thống.
5. Điểm mới của luận án
phải sử dụng có hi
ệu quả bao bì trong kinh doanh thương mại
1.1.1. Kinh doanh thương mại và những cơ sở của kinh doanh thương mại Nền kinh tế nước ta là một tổng thể kinh tế quốc dân thống nhất. Nó bao
gồm nhiều ngành và mỗi ngành thực hiện một chức năng nhất định. Kinh doanh
thương mại là một ngành kinh tế, một lĩnh vực hoạt động kinh tế, là một mắt
xích quan trọng trong hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất.
1.1.1.1. Thương mại và Kinh doanh thương mại [8] [10]
Chúng ta đều biết rằng để
tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân, mỗi gia đình,
mỗi tổ chức (kinh tế, văn hoá, xã hội...) hay một quốc gia đều luôn có và phải
thoả mãn các nhu cầu vô cùng đa dạng, phong phú, phức tạp của mình. Cách
thức để thoả mãn những nhu cầu đó có thể thực hiện được bằng cách tự mình
sản xuất, lao động ra những sản phẩm vật chất - tinh thần để tự đáp ứng cho
mình. Nhưng với những nhu cầu đa dạng, phức tạp, cách thức đáp ứng này
không đảm bảo về số lượng, chất lượng ngày càng cao của mỗi thành viên cũng
như toàn xã hội. Khi sự phân công lao động xã hội xuất hiện, mỗi thành viên,
mỗi tổ chức chuyên môn hóa một lĩnh vực hoạt động tạo ra nhiều loại sản phẩm
hơn, khối lượng lớn hơn cho phép việc tho
ả mãn các nhu cầu một cách tốt hơn.
Khi đó, mỗi người, mỗi tổ chức, quốc gia có thể thoả mãn nhu cầu của mình
bằng cách trao đổi các kết quả hoạt động cho nhau. Tuy nhiên, khi sự phân công
lao động ngày càng sâu sắc thì các dạng kết quả của hoạt động thể hiện ngày
càng đa dạng phong phú. Kết quả hoạt động của các thành viên có thể được biểu
hiện ở dạng vật chất c
ụ thể như xi măng, sắt thép, bánh kẹo, máy móc thiết bị...
hoặc dưới các dạng một kết quả nghiên cứu, một quyết định quản lý, một lời
khuyên (tư vấn) hoặc một văn bản pháp lý... Ở đây, để khái quát kết quả hoạt

t động thương mại bao gồm
một số khâu hoặc tất cả các khâu của hành vi thương mại, có thể do một cá nhân
hoặc một tổ chức hoặc toàn xã hội thực hiện.
Nhìn chung có nhiều cách hiểu khác nhau về thương mại song có thể khái
quát thương mại dưới các góc độ khác nhau:
Thương mại, hiểu theo nghĩa hẹp, là “quá trình mua bán hàng hóa, dịch vụ
trên thị trường, là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa”. Hành vi thương
mạ
i thể hiện ở nhiều dạng khác nhau. Theo Luật Thương mại, các hình vi
thương mại bao gồm: mua bán hàng hóa, đại diện cho thương nhân; môi giới
thương mại, uỷ thác mua bán hàng hóa, đại lý mua bán hàng hoá, gia công
thương mại, đấu giá hàng hóa, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ giám định hàng hóa,
khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hóa và hội chợ
triển lãm thương mại.
Theo nghĩa rộng, thương mại là “toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên
thị trường”. Thương mại được hiểu như các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu lợi
nhuận của các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trường. ở góc độ này, thương
mại đồng nghĩa với kinh doanh. Cách hiểu này trùng hợp với cách hiểu của các nước như Anh, Pháp, Nga. Theo từ điển Nga- Việt, xuất bản 1977 thì
TẻéÃẻBΛò

được hiểu là nền (ngành, nghề, việc, sự) thương nghiệp, thương mại, buôn bán,
mua bán mậu dịch [24, tr 452].
Kinh doanh thương mại [12, 39]
Nền kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa
ngày càng sâu rộng với quy mô, cơ cấu ngày càng lớn, đa dạng, phong phú làm
xuất hiện lĩnh vực kinh doanh mới - kinh doanh thương mại. Kinh doanh thương
mại được hiểu là sự đầu tư tiền của, công sức của cá nhân, một tổ ch

chỉ ở mức độ giản đơn. Trong điều kiện kinh tế thị trường, để tăng trưởng, phát
triển, để thực hiện mục tiêu an toàn và có vị thế trong cạnh tranh, kinh doanh
phải có lãi. Lợi nhuận doanh nghiệp là nguồn vốn quan trọng để tích luỹ, tái
kinh doanh mở rộng. Theo quy luật của kinh doanh hàng hóa, lợi nhuận c
ủa chu
kỳ kinh doanh sau bao giờ cũng phải lớn hơn lợi nhuận kỳ trước. Công thức lưu
chuyển T- H- T’ (trong đó T’= T + ΔT) mới thực sự là yêu cầu, là động lực cho
hoạt động kinh doanh của các doanh nghịêp. Lợi nhuận trong kinh doanh thương
mại được thực hiện trực tiếp từ hành vi mua - bán.
1.1.1.2. Cơ sở của kinh doanh thương mại [7]
Kinh doanh thương mại hình thành bắt nguồn từ phân công lao động xã
h
ội và chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (TLSX) - cơ sở của sản xuất
hàng hóa. Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quá trình tái sản xuất
xã hội bao gồm: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. Sản xuất là khâu
khởi đầu, tiêu dùng là khâu kết thúc, phân phối và trao đổi là khâu trung gian.
Phân công lao động xã hội là quá trình chuyên môn hóa người sản xuất.
Mỗi “người” chỉ chuyên sản xuất một hay mộ
t số sản phẩm thậm chí chỉ sản
xuất một bộ phận (chi tiết) của sản phẩm. Để thoả mãn nhu cầu đa dạng, phong
phú của mỗi thành viên nên họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau, tức là sự
chuyên môn hóa sản xuất gây ra sự cách biệt về mặt không gian, thời gian giữa
những người sản xuất cá biệt và để thoả mãn nhu cầu của đời sống, sản xu
ất
kinh doanh đòi hỏi phải có sự trao đổi giữa những người sản xuất với nhau. Xét
trên phạm vi xã hội, sản xuất đồng nghĩa với tiêu dùng. Muốn sản xuất ra sản
phẩm này, phải tiêu dùng, sử dụng loại sản phẩm khác mà bản thân họ không tự
chế tạo ra được. Nhờ sự trao đổi này mà sản phẩm trở thành hàng hoá trên thị
trường, trong xã hội tồn tại sản xu
ất và lưu thông hàng hóa. V.I. Lênin đã chỉ ra

phát triển mạnh mẽ, hình thái các ngành với các chức năng rất cụ thể. Lưu thông
hàng hóa được tách thành một chức năng độc lập khỏi chức năng s
ản xuất. Qúa
trình này tất yếu đòi hỏi một sự hao phí lao động nhất định trong quan hệ trao
đổi. Bộ phận lao động này thực hiện chức năng lưu thông sản phẩm hàng hoá từ
các nhà sản xuất đến nơi tiêu dùng, thực hiện hành vi mua để bán. Tiền tệ đóng
vai trò là phương tiện để tổ chức quá trình lưu thông hàng hóa của xã hội.
Công thức tổng quát của kinh doanh thương mại là T- H- T’ với T’= T+
Δ
T. Đặc trưng của hình thức này là:
+ Đã xuất hiện tầng lớp trung gian (thương nhân, tổ chức kinh doanh
thương mại). Những trung gian này dùng tiền để mua hàng, sau đó bán hàng để
thu tiền về. Khoản tiền bán hàng lớn hơn khoản tiền ứng trước để mua hàng. Ở
đây, kinh doanh thương mại (T- H- T’): mua để bán hay vì bán mà phải mua. + Kinh doanh thương mại một mặt làm tăng thêm khả năng mất cân đối
giữa cung và cầu, giữa sản xuất với tiêu dùng, mặt khác chính nó cũng có khả
năng điều hoà cung cầu trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, làm cân đối giữa sản
xuất và tiêu dùng, giữa các ngành, các vùng và hơn nữa giữa các quốc gia.
Như vậy, cơ sở của kinh doanh thương mại là sự phân công lao động xã
hội, là chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sự xuất hiện tiền tệ trong
quá trình lưu thông hàng hoá.
Phân công lao động xã hội là điều kiện cần để hình thành sự trao đổi sản
phẩm giữa các nhà sản xuất.
Chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất hình thành quyền độc lập về
kinh tế giữa các nhà sản xuất với nhau. Do đ
ó, việc trao đổi sản phẩm phải được
tính toán phù hợp với lợi ích kinh tế của mỗi nhà sản xuất.

Những dịch vụ mang tính ch
ất sản xuất (vận chuyển, bảo quản, gia công,
chế biến, phân loại hàng hóa, đóng gói làm đồng bộ sản phẩm...) nhằm bảo tồn
và hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa. Do đó, các dịch vụ này làm tăng
thêm giá trị của hàng hoá và thường chiếm chủ yếu. Các tổ chức kinh doanh
thương mại cần thấy rõ chức năng và thực chất của kinh doanh thương mại để có
định hướ
ng đúng đắn trong nội dung hoạt động của mình.
1.1.2. Nội dung hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại
trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước [7, 12, 39]
Như trên đã phân tích, sự ra đời của các thương nhân, các tổ chức chuyên
làm chức năng lưu thông hàng hoá trên thị trường là một tất yếu khách quan
trong tiến trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Những tổ chứ
c thương nhân đó
là các đơn vị (doanh nghiệp) kinh doanh thương mại. V.I. Lênin đã mô tả một
cách sinh động quá trình hình thành thương nhân từ việc chuyên môn hoá lao
động trong những người làm nghề thủ công ở Nga trong tác phẩm “Sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản ở Nga” như sau: Lúc đầu, do nhu cầu phải tiêu thụ hàng
hoá sản xuất ra, những người làm nghề thủ công đã phân công một số người đưa
hàng ra thị trườ
ng để bán, dần dần công việc đó được cố định vào một số người.
Những người này lập tức biến quan hệ của họ thành quan hệ mua bán với những
người làm nghề thủ công. Họ mở rộng quan hệ ra một số vùng rộng lớn và trở
thành những thương nhân chuyên đảm nhận chức năng lưu thông hàng hóa [29]
Như vậy, trong quá trình phát triển của mình, những người thương nhân
chuyên nghiệp này trở thành các đơn vị kinh doanh thương mại, tập hợp thành
một hệ thống to lớn như hiện nay ở các nước cũng như ở Việt Nam chúng ta. Đó
là hệ thống các tổ chức kinh doanh thương mại - doanh nghiệp thương mại
(DNTM).


vị sản xuất trong nước hoặc có thể tự sản xuất), mua của các đơn vị kinh doanh
khác, nguồn nhập khẩu và các nguồn khác. Cần xác
định chính xác khả năng của
nguồn hàng, khả năng có thể khai thác, khả năng đặt hàng, mua hàng để có
nguồn hàng đầy đủ về số lượng, tối ưu về chất lượng, phù hợp với thời gian, yêu
cầu của thị trường. Có như vậy, việc mua mới bán được, nguồn hàng mới đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng. Chính nhu cầu thị trường, khả năng đáp ứng nhu cầu của nguồn hàng hoá
là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng, ngành hàng kinh doanh,
quyết định các điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện kinh doanh. Việc nghiên
cứu, xác định nhu cầu thị trường, xác định nguồn cung ứng cần được tiến hành
thường xuyên, liên tục, đặc biệt trong đ
iều kiện kinh doanh theo cơ chế thị
trường nước ta hiện nay. Trong đó cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
nghiên cứu xác định nhu cầu của khách hàng vì khách hàng và nhu cầu của họ
chính là điểm xuất phát của hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
 Xây dựng chiến lược, kế hoạch kinh doanh đúng đắn.
Chiến lược kinh doanh của DNTM là định hướng hoạt động có mục tiêu
c
ủa doanh nghiệp thương mại cho một thời kỳ dài và hệ thống các chính sách,
các điều kiện, các biện pháp để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu đã đề ra. Trong
cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt khốc liệt như hiện nay, chiến lược kinh
doanh giúp cho doanh nghiệp thấy rõ được hướng đi, bước đi, cách đi, mục đích
cần đạt, chủ động được các điề
u kiện trong kinh doanh, thấy rõ được những cơ
hội để khai thác, những rủi ro để đề phòng. Điều đó đảm bảo cho doanh nghiệp
tồn tại và phát triển được trong điều kiện kinh doanh có vô vàn cơ hội tìm kiếm
lợi nhuận song cũng đầy cạm bẫy rủi ro. Khi xây dựng chiến lược kinh doanh

thời gian, theo quy mô, phạm vi của từng hoạt động nhưng phải đảm bảo tính
thống nhất, tính hợp lý, tính khả thi, phù hợp với các mục tiêu cụ thể và mục tiêu
chiến lược của doanh nghiệp.[23]
Ở DNTM, kế hoạch kinh doanh cơ bản nhất là kế hoạch mua bán (lưu
chuyển) hàng hoá. Đây là kế hoạch nền tảng cho mọi kế hoạch khác trong cùng
hệ thống kế hoạch kinh doanh - kỹ thuậ
t - tài chính của DNTM. Cơ sở khoa học
để xây dựng chiến lược và các kế hoạch kinh doanh của DNTM là kết quả
nghiên cứu thị trường, là các chủ trương chính sách của nhà nước, của các cấp
quản lý; là hệ thống căn cứ định mức kinh tế - kỹ thuật trong kinh doanh, sự
phân tích các yếu tố môi trường nội tại và bên ngoài doanh nghiệp.
Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, điều kiện hội nhập c
ủa Việt Nam
ngày càng mở rộng, đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược, kế hoạch kinh
doanh nhạy bén, đúng đắn mới không ngừng thúc đẩy được hoạt động của mình,
nâng cao sức cạnh tranh và uy tín trên thị trường, kinh doanh có lãi.
 Huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực đưa vào kinh doanh.
Muốn tiến hành hoạt động kinh doanh, DNTM phải biết huy động mọi
nguồn lực của mình, đưa chúng ra hoạt
động để tạo ra lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Các nguồn lực mà doanh nghiệp có thể huy động được bao gồm:
+ Vốn hữu hình như tiền, nhà cửa, kho tàng, cửa hàng, quầy hàng, các
thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh... + Vốn vô hình như sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá kinh doanh, uy tín
của doanh nghiệp với khách hàng, bí quyết kinh doanh, sự nắm giữ các thông tin
thị trường…
+ Con người: Đây được xem là nguồn lực quan trọng nhất của doanh
nghiệp. Con người với tài năng và kinh nghiệm nghề nghiệp được đào tạo, tích
Để thực hiện mua hàng, bán hàng, dự trữ hàng hoá, doanh nghiệp phải có
chính sách tạo nguồn thích hợp, có phương thức và các hình thức bán tiến bộ,
phải có cơ sở mạng lưới mua - bán hợp lý, có hệ thống kho hàng, cửa hàng được
phân bố phù hợp với quy mô, tốc độ lưu chuyển hàng hoá. Thực hiện các hoạt
động giao nhận, vận chuyển, thanh toán với người cung ứng, người mua nhằm
thúc đẩy quá trình kinh doanh có hiệu quả nhấ
t.
 Quản trị các yếu tố (vốn, phí, hàng hoá, thời gian, thông tin... và nhân sự)
trong hoạt động kinh doanh và quản trị chặt chẽ, khoa học các nghiệp vụ kinh
doanh của doanh nghiệp.
+ Quản trị vốn, phí, hàng hoá và nhân sự trong hoạt động kinh doanh.
Vốn kinh doanh của DNTM là thể hiện bằng tiền của tài sản lưu động và
tài sản cố định; vốn hữu hình và vốn vô hình của doanh nghiệp. Quản trị vốn là
thự
c hiện sử dụng vốn trong kinh doanh và theo dõi được kết quả sử dụng vốn là
có lãi hay lỗ.
Chi phí kinh doanh là các khoản chi cho quá trình mua, dự trữ và bán
hàng hoá, trong đó có chi phí mua hàng (vốn) và chi phí lưu thông hàng hoá.
Phải quản lý được các khoản chi và phải chi đúng mục đích, đúng kế hoạch và
đúng hướng, chi phải có thu, chi phải tạo ra thu. Chi tiêu tiết kiệm, tránh những
khoản chi có tính chất phô trương, hình thức và hạn chế các khoản thiệt hại làm
tăng chi phí kinh doanh.
Quả
n trị chi phí là phải có kế hoạch chi, phải theo dõi và tính toán đúng
đắn các khoản chi phí, tiết kiệm chi phí.
Quản trị nhân sự là lựa chọn, bố trí, sắp xếp, phân công việc nào người ấy
phù hợp, để hoàn thành tốt các chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Quản trị nhân sự cũng như quản trị các hoạt động kinh doanh khác phải

Trong nền kinh tế quốc dân, sản phẩm của tất cả các ngành công nghiệp
(trừ công nghiệp khai thác than, khoáng sản, ngành xây dựng cơ bản) sau khi rời
khỏi quá trình sản xuất trực tiếp đều phải được bao gói, chứ
a đựng bằng một sản
phẩm khác để thực hiện việc bảo quản, vận chuyển đến nơi tiêu thụ. Những sản
phẩm dùng để bao gói đó theo cách gọi phổ biến là bao bì hàng hoá. Có nhiều
quan niệm khác nhau về bao bì, song theo quan niệm chung nhất thì “bao bì là
một loại sản phẩm công nghiệp đặc biệt dùng để bao gói và chứa đựng các sản
phẩm nhằm bảo vệ giá trị sử dụng c
ủa sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc bảo quản, vận chuyển, xếp dỡ và tiêu thụ sản phẩm” [13, tr 192]
Trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại, việc sử
dụng có hiệu quả bao bì, đóng gói là sự cần thiết khách quan. Bởi lẽ:
 Do chức năng của kinh doanh thương mại: Kinh doanh thương mại là lĩnh vực hoạt động chuyên nghiệp trong lưu
thông hàng hoá. Nó là cầu nối trung gian cần thiết, tất yếu giữa sản xuất với tiêu
dùng, giữa cung và cầu trên thị trường. Kinh doanh thương mại có nhiều chức
năng:
+ Kinh doanh thương mại thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá từ
nguồn hàng đến nơi tiêu dùng.
Khi sản phẩm rời khỏi quá trình sản xuất, nó mới chỉ là s
ản phẩm ở trạng
thái khả năng. Chỉ khi nào những sản phẩm đó được đưa vào quá trình sử dụng
(cho tiêu dùng sản xuất/tiêu dùng cá nhân) thì sản phẩm mới trở thành sản phẩm
thực sự, quá trình sản xuất mới hoàn thành.
Người sản xuất có thể bán sản phẩm của mình theo các cách khác nhau,
hoặc là bán trực tiếp cho người tiêu dùng, hoặc bán sản phẩm của mình cho
người trung gian và người trung gian đó lại bán chính sả

ng thanh toán của họ. Bao bì hàng hoá tạo điều kiện thuận lợi cho
việc dự trữ, bảo quản vận chuyển hàng hoá trong quá trình lưu thông. Vì thực
chất “bao bì cũng là một loại sản phẩm mà công dụng đặc biệt của sản phẩm
này là để bao gói và chứa đựng sản phẩm khác” [13, tr 193]. Bao bì bảo vệ, bảo
quản sản phẩm trong suốt quá trình lưu thông của nó từ nơi sản xuấ
t đến nơi tiêu
dùng.
Đối với DNTM, bao bì được xem như một điều kiện vật chất cần thiết để
thực hiện các nghiệp vụ bảo quản, xếp dỡ, vận chuyển... của lưu thông hàng hoá
nhằm thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá từ nguồn hàng đến người tiêu
dùng một cách thuận tiện và hiệu quả.
 Chức năng tiếp tục quá trình sả
n xuất trong khâu lưu thông của doanh
nghiệp thương mại.
Kinh doanh thương mại là khâu trung gian giữa sản xuất với tiêu dùng.
Nhưng nhu cầu tiêu dùng lại vô cùng đa dạng và phức tạp. Mỗi nhu cầu tiêu
dùng có những yêu cầu cụ thể riêng mà các nhà sản xuất không thể đáp ứng
được khi tạo ra các sản phẩm hàng hoá. Để thoả mãn tốt nhất những nhu cầu cụ
thể đó, các DNTM phải thực hiện nhiều hoạ
t động như phân loại, chọn lọc, đóng
gói làm đồng bộ sản phẩm, hướng dẫn sử dụng, vận chuyển... Đó chính là chức
năng tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông mà các DNTM cần phải
thực hiện nhằm hoàn thiện sản phẩm, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu cụ thể của
tiêu dùng. Trong số các hoạt động nhằm thực hiện chức năng c
ủa kinh doanh
thương mại, hoạt động chuẩn bị hàng hoá, đóng gói hàng hoá, gửi hàng cần phải
sử dụng đến các loại bao bì. Việc chia nhỏ lô hàng thành các đơn vị hàng hoá
thích hợp với tiêu dùng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng
mà còn thuận tiện cho cả quá tình lưu thông hàng hoá (gửi hàng, vận chuyển...).
DNTM cần lựa chọn các loại bao bì phù hợp với từng loại sản phẩm, từng đi


Sơ đồ 1.1: Cấu trúc một hàng hoá hoàn chỉnh
Sản phẩm mà người tiêu dùng nhận được từ DNTM là một sản phẩm hoàn
chỉnh. Bao gồm sản phẩm từ nhà sản xuất chế tạo ra (thông thường là ở mức độ
1 và 2) và sản phẩm của đơn vị kinh doanh thương m
ại (mức độ 3) - các dịch vụ
của DNTM.
Như vậy, sản phẩm của DNTM mặc dù luôn gắn chặt với hàng hoá hiện
vật mà họ buôn bán nhưng thực chất chỉ gồm các dịch vụ mà họ đáp ứng cho
người sản xuất và người tiêu dùng. Trong những trường hợp nhất định như để
thoả mãn tốt nhất những nhu cầu cá biệt của người tiêu dùng, DNTM phải t

chức phân loại, đóng gói bảo quản, đồng bộ hoá sản phẩm. Trong những trường
hợp đó, cần phải có những bao bì thích hợp để hình thành những “hàng hoá hiện
thực” phù hợp với yêu cầu của họ. Thông thường các loại bao bì mà DNTM sử
dụng và hình thức bao gói hàng hoá là do yêu cầu cụ thể của khách hàng, đặc
biệt đối với các hàng hoá xuất, nhập khẩu. Bao bì đóng vai trò một yếu tố của
quá trình sản xuất để hoàn thiện sản phẩm hàng hoá hiện thực.
 Đảm bảo quá trình kinh doanh liên tục, tránh kinh doanh mang tính thời vụ
và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong kinh doanh
Hàng hoá theo ý
tưởng (1)
Hàng hoá hoàn
chỉnh (3)
Hàng hoá hiện
thực (2)
Bán
ch
ịu
Bảo

những đặc điểm riêng về nền văn hoá, tín ngưỡng (hội hè, lễ lạt). Trong khi đó,
các doanh nghiệp sản xuất tiến hành liên tục, đều đặn. Lượng hàng hoá tiêu
dùng cho các nhu cầu không thường xuyên đó cần được các DNTM tổ chức dự
trữ
hợp lý, mới có khả năng thoả mãn kịp thời chính xác, đảm bảo chất lượng,
thị hiếu tiêu dùng. Mặt khác, có những loại vật tư (nguyên vật liệu) dùng cho
sản xuất lại chỉ được sản xuất theo thời gian, thời vụ nhất định, đặc biệt là các
sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... nhưng nhu cầu tiêu dùng các
sản phẩm là các vật tư đó lại
được thực hiện liên tục trong các doanh nghịêp sản
xuất. Để cung cấp các loại sản phẩm vật tư đó phục vụ quá trình sản xuất liên
tục, đều đặn ở các doanh nghiệp sản xuất cũng cần phải có lượng dự trữ linh
hoạt hợp lý. Dự trữ vật tư, hàng hoá tiêu dùng có hiệu quả kinh tế xã hội nhất là
thực hiện ở các đơn vị kinh doanh thươ
ng mại. Ở các DNTM, dự trữ vật tư hàng
hoá có quy mô có quy mô lớn, chủng loại mặt hàng đa dạng phong phú, tính linh
hoạt cao, khả năng điều tiết cung cầu lớn. Vì vậy, dự trữ được xem là một chức
năng của kinh doanh thương mại mà DNTM là người thực hiện chức năng này
có hiệu quả nhất.
Bao bì hàng hoá với đầy đủ các yêu cầu của nó sẽ góp phần tích cực vào
việc vào vi
ệc giữ gìn nguyên vẹn giá trị sử dụng của các loại vật tư hàng hoá dự
trữ. Nhờ có bao bì hàng hoá thích hợp mà các DNTM có thể khắc phục được
tình trạng kinh doanh lệ thuộc vào thời vụ sản xuất, thay đổi tập quán tiêu dùng
theo thời vụ, đảm bảo cho tiến trình kinh doanh được liên tục, hiệu quả, nâng
cao khả năng cạnh tranh, tạo dựng và chiếm lĩnh được các cơ hội kinh doanh
trong điều ki
ện kinh tế hội nhập.
1.2. Bao bì và vai trò của nó trong hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp thương mại.

nhiễm, không gây nguy hiểm, độc hại cho nước, không khí và môi trường nói
chung.
Bao bì bằng thuỷ tinh đã xuất hiện để giải quyết một số khuyết tật của
bao bì bằng gốm. Trước đây, bốn đến sáu ngàn năm, các loại chai lọ thuỷ tinh đã
được sử dụng ở Ai Cập. Những bao bì này được sản xuất bằng phương pháp thủ
công đơn giản. Chai l
ọ thuỷ tinh có thể sử dụng đa dạng hơn và được giữ lại để
tái sử dụng cho đến khi bị vỡ. Chúng có khả năng tái sinh do có khả năng thu
hồi và lập lại công nghệ “chế biến” chai lọ thuỷ tinh mới. Nhưng viêc tái sinh lại
cũng gặp những khó khăn bởi sự thu hồi từ phía người tiêu dùng, việc sử dụng công nghệ “tái sinh” gây ô nhiễm không khí. Những chai lọ thuỷ tinh không
được thu hồi đã gây ra tác hại với môi trường đất. Bao bì bằng thuỷ tinh ngày
nay đã được sản xuất bằng công nghệ mới, tiên tiến. Hình thức, kiểu dáng,
chủng loại ngày càng phong phú, đa dạng, vừa có chất lượng cao vừa có tính mỹ
thuật.
Công nghiệp bao bì liên tục được phát triển. Các loại vật liệu bao bì luôn
được nghiên cứu, công nghệ mới để sản xu
ất bao bì cũng ngày càng được áp
dụng rộng rãi nhằm đảm bảo cho sản phẩm bao bì đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Bao bì bằng chất liệu giấy đã ra đời ở Trung Quốc vào khoảng vài ba
ngàn năm trước. Loại bao bì này có khả năng thu hồi, tái chế và thuận tiện trong
lưu thông. Công nghệ sản xuất bao bì giấy được nhiều nước đang phát triển áp
dụ
ng và ngày càng được hoàn thiện.
Bao bì hàng hoá đang trong quá trình phát triển liên tục từ khi bắt đầu
cuộc cách mạng công nghiệp. Từ thuở sơ khai, bao bì được làm bằng các
phương pháp thủ công, khối lượng nhỏ và quy cách đơn giản, với tác dụng chủ

được nhận biết cụ thể và chi tiết. Đặc biệt trong nền sản xuất hàng hoá, giá trị sử
dụng cơ b
ản của sản phẩm phải được xã hội thừa nhận, sản phẩm phải được cọ
xát trên thị trường và phải được trở thành sản phẩm thực sự tức là phải được tiêu
dùng.
Bao bì hợp thành sản phẩm hoàn chỉnh trong cơ cấu hợp lý với sản phẩm
cơ bản (giá trị sử dụng cụ thể). Nhà sản xuất quan tâm đến “phương tiện biể
u
hiện” và chi phí bao bì khi sử dụng bao bì trong hoạt động thương mại.

Theo các nhà kinh tế, bao bì được xem xét một cách toàn diện hơn. Người
ta nghiên cứu bao bì gắn liền với quá trình lưu thông hàng hoá và các yếu tố chi
phí liên quan đến quá trình đó. Bao bì là những biện pháp kinh tế mang lại cho
sản phẩm sự thể hiện, sự bảo vệ, sự nhận biết thông tin, sự chứa đựng, thuận tiện
cho người tiêu dùng.
Ở đây, bao bì được xem xét trong toàn bộ quá trình quản lý sản phẩm đi
từ nơi sản xu
ất đến nơi tiêu dùng. Quá trình đó diễn ra theo trật tự nhất định: từ
lưu kho thành phẩm (lưu bãi) đến vận chuyển, trưng bày, sử dụng. Sản phẩm
được đóng gói trong bao bì sẽ bị tác động của nhiều yếu tố trong mỗi khâu của
quá trình vận động sản phẩm.
Bao bì có thể được hiểu:
- Là nghệ thuật, là khoa học và kỹ thuật công nghệ.
- Là phương tiện để
đảm bảo cho sản phẩm được an toàn về số lượng,
chất lượng từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng với chi phí thấp
nhất, trong điều kiện tối ưu.

Trích đoạn Những hạn chế: Những nguyên nhân chủ yếu: Chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam những năm tới [17] Những yêu cầu đặt ra trong sử dụng bao bì
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status