Tài liệu lịch sử việt nam p.2 - Pdf 83

ĐỀ TÀI: LƯƠNG THẾ VINH
Người thực hiện: Thân Thị Liên
Lớp: A3K18
I. TIỂU SỬ
Lương thế Vinh, tên chữ Cảnh Nghị, tên hiệu Thụy Hiên, sinh ngày mồng 1 tháng 8 năm Tân
Dậu (1441) trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Cao Hương, nay là làng Cao Phương, xã Liên
Bảo, huyện Vũ Bản, tỉnh Nam Định. Từ nhỏ Lương Thế Vinh đã nổi tiếng về khả năng học mau
thuộc, nhanh hiểu, và khả năng sáng tạo trong các trò chơi như đá bóng, thả diều, câu cá, bẫy chim.
II. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
Năm 21 tuổi, Lương thế Vinh đi thi Hương, đậu Giải nguyên khoa Nhâm Ngọ (1462). Năm
1463, về kinh thi Hội, Lương thế Vinh đậu thứ hai trong số 44 vị tân khoa chọn từ 1400 cống sĩ dự
thi. Tiếp theo đó là cuộc thi Đình cho 44 vị tân khoa, Lương thế Vinh đậu Trạng nguyên, đứng đầu
44 vị Tiến sĩ.
Ra làm quan, Lương thế Vinh là một bậc đại sĩ phu thanh liêm cương trực, chỉ trong 4 năm làm
quan trong triều đã ba lần viết hặc tấu khiến nhà vua phải cách chức ba tên ba đại thần vì tội tham
nhũng, ăn hối lộ, và vô luân.
Ông có tài ngoại giao, thường giúp cho nhà vua việc văn từ bang giao với nước ngoài.
Lương thế Vinh còn là một nhà giáo dục giỏi. Ông đã đề nghị nhà vua cải cách việc học hành thi cử ,
đưa việc học xuống tận nông thôn, cần quan tâm đến cả việc dạy tri thức và đạo đức. Ông là người
đứng đầu Viện Hàn lâm, đồng Bí thơ giám trông coi kho sách của nhà vua, dạy học ở Quốc tử giám,
còn là Tư huấn của Sùng văn quán và Tú Lâm cục, là những trường đào tạo nhân tài.
Đặc biệt, Lương thế Vinh rất chú trọng đến môn toán, đến việc dạy toán và học toán. Ông đã
biên soạn cuốn “Toán pháp đại thành” dày 160 trang, là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nơớc ta.
Bản cửu chương và bàn tính của ông rất thông dụng trong công sở và trong nhân dân. Dân quý mến
gọi ông là Trạng Lường, tức là ông Trạng giỏi tính toán, đo lường.
III. THÀNH TỰU
Lương thế Vinh còn có những công trình về âm nhạc nhơ bộ Đồng Văn chuyên hợp xướng và bộ
Nhã nhạc chuyên hòa tấu bằng nhạc khí, dùng trong quốc lễ và triều hội. Tác phẩm Hý phường phả
lục của ông là tác phẩm lí luận đầu tiên về nghệ thuật sân khấu chèo ở nước ta.
Cuối đời , Lương thế Vinh về trí sĩ ở quê nhà và soạn cuốn “Thích điển giáo khoa Phật kinh thập
giới” , chú giải hai tác phẩm Nam tông tự pháp đồ và Thiền môn giáo khoa của sơ Thường Chiếu

Lê Trung Tông (1548-1556)
Lê Anh Tông (1556-1573)
Trịnh Cối 1570 Lê Anh Tông
Năm 1570 đầu hàng nhà
Mạc,
được Mạc Kính Điển phong
làm Trung Lương Hầu
Thành Tổ Triết vương
Trịnh Tùng
1570-1623
Lê Anh Tông
Lê Thế Tông (1573-1599)
Lê Kính Tông (1599-1619)
Lê Thần Tông (1619-1643)
Thu phục Đông Kinh 1593
Văn Tổ Nghị vương
Trịnh Tráng
1623-1652 Lê Chân Tông (1643-1649)
Lê Thần Tông (lần hai:1649-
1662)
Hoằng Tổ Dương
vương Trịnh Tạc
1653-1682
Lê Thần Tông
Lê Huyền Tông (1663-1671)
Lê Gia Tông (1672-1675)
Lê Hy Tông (1676-1704)
Chiêu Tổ Khang vương
Trịnh Căn
1682-1709

10/1782-1786 Lê Hiển Tông Có tên cũ là Trịnh Tông
Án Đô vương Trịnh
Bồng
9/1786-9/1787 Lê Mẫn Đế Trốn mất tích sau 1787
III. TRỊ NƯỚC
1. Dẹp tàn dư họ Mạc
Dù Mạc Mậu Hợp và sau đó là Mạc Toàn bị bắt và bị giết thì thế lực của nhà Mạc chưa bị tiêu diệt
hết. Các vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng vẫn thuộc quyền quản lý của nhiều người như
Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung cho tới năm 1623. Nhà Minh, vì muốn duy trì thế Nam Bắc triều ở
Đại Việt có lợi cho họ nên can thiệp để họ Mạc được cát cứ ở Cao Bằng. Vì vậy cháu Mạc Kính Điển
là Kính Khoan và con Khoan là Kính Vũ vẫn cát cứ ở Cao Bằng, dù về cơ bản, họ Trịnh đã làm chủ
Bắc Bộ và Bắc Trung bộ.
Khi nhà Minh sụp đổ (1644), các vua Nam Minh - tàn dư nhà Minh - vẫn ủng hộ họ Mạc. Họ Mạc
nối nhau trấn giữ ở đây trong nhiều năm. Mãi đến khi nhà Minh mất hẳn (1662) về tay nhà Thanh, họ
Trịnh mới ra tay dẹp họ Mạc. Tới năm 1677, chúa Trịnh Tạc sai tướng Đinh Văn Tả đi đánh, việc trấn
giữ Cao Bằng của họ Mạc mới chấm dứt.
2. Trịnh – Nguyễn phân tranh
Sau khi Nguyễn Hoàng xuống phía Nam đã xây dựng căn cứ và phát triển thành một thế lực độc
lập, hình thành chính quyền của họ Nguyễn. Tuy các chúa Nguyễn vẫn hợp tác với chúa Trịnh để
chống nhà Mạc và vẫn đứng danh nghĩa là thần tử nhà Lê, nhưng thực tế các chúa Nguyễn vẫn cai trị
các tỉnh biên giới phía Nam Đại Việt với một chính quyền độc lập. Hơn thế nữa, họ đã có công mở
rộng lãnh thổ Đại Việt lên gấp đôi về phía Nam. Sau khi đánh bại nhà Mạc, sự độc lập của các chúa
Nguyễn ngày càng trở nên khó chịu đối với các chúa Trịnh.
3. Dẹp yên khởi nghĩa nông dân
Các chúa Trịnh từ Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương đều
là những chúa giỏi cai trị. Sau khi chiến tranh Trịnh - Nguyễn và Trịnh-Mạc chấm dứt, Bắc Hà yên ổn
thịnh trị.
Các chúa Trịnh cai trị khá tốt, luôn giữ hư danh cho vua nhà Lê. Tuy nhiên họ là người lựa chọn
ra vua, họ thay thế vua khi họ thích và họ cũng có quyền cha truyền con nối để chỉ định nhiều quan
chức hàng đầu trong triều đình. Không giống như các chúa Nguyễn, những người thường gây chiến

đòn nặng nề đầu năm 1789. Quân Thanh thua to, rút chạy. Nguyễn Huệ -lúc ấy đã là hoàng đế Quang
Trung - sau đó được vua Thanh công nhận và chính thức thay họ Lê cai trị nước Đại Việt. Chiêu
Thống lưu vong và mất (1793) ở Trung Quốc.
Các chúa Trịnh cầm quyền từ năm 1545 đến năm 1787, tổng cộng 243 năm, được 10 đời chúa.
Nếu kể cả Trịnh Cối và Trịnh Cán là có 12 chúa. Xét ra đời Trịnh Khải, Trịnh Bồng ngắn và rối ren
nên thường chỉ tính 8 đời cầm quyền vững vàng, thịnh trị của họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Sâm
như lời “sấm ngữ”.
III. ĐÁNH GIÁ
Các chúa Trịnh đã tránh một số vấn đề quản lý triều đình bằng cách lựa chọn người giỏi nhất từ
thế hệ trẻ họ Trịnh để cai trị đất nước. Thứ bậc anh em không được họ Trịnh coi trọng nhiều và đã có
lời nói rằng đứa con thứ hai sẽ trở thành người lãnh đạo tốt hơn. Giống như các chúa Nguyễn và nhà
Nguyễn sau này, các chúa Trịnh cũng gặp phải vấn đề với các cuộc nổi dậy của nông dân và việc
không có ruộng đất đã trở thành một nguồn gốc gây nên các vấn đề cho triều đình.
Các chúa Trịnh chú ý tới việc giữ vững các quan hệ tốt với Trung Quốc và giữ gìn xã hội Khổng
giáo hơn các chúa Nguyễn. Những người châu Âu hầu như không có lãi khi buôn bán với các chúa
Trịnh, cả người Hà Lan (năm 1637) và người Anh (năm 1673) đều đã lập thương điếm nhỏ ở trung
tâm Thăng Long nhưng không phát triển được.
Vào những năm sau này khi nhà Nguyễn nổi lên và cai trị toàn bộ Việt Nam, các chúa Trịnh đã bị
đánh giá thấp, thậm chí lên án trong chính sử, điển hình là sách "Khâm định Việt sử Thông giám
cương mục". Nếu nhìn nhận khách quan hơn, phần lớn các chúa Trịnh đều là những người tài. Chỉ trừ
Trịnh Giang, các chúa từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Sâm đều là những vị chúa tài ba, do đó đã hoàn thành
việc đánh dẹp và cai trị phía Bắc Việt Nam, giữ cho xã hội Đại Việt ổn định trong gần 2 thế kỷ. Chiến
tranh Trịnh-Nguyễn diễn ra trong 45 năm giữa thế kỷ 17 nhưng trong thời gian đó Bắc Hà không có
cuộc bạo loạn, chống đối nào của nông dân.
ĐỀ TÀI: BÙI THỊ XUÂN
Người thực hiện: Nông Thị Hương Linh
Lớp: A3K18
I. TIỂU SỬ
Bùi Thị Xuân (?- 1802) quê ở thôn Xuân Hòa, tổng Phú Phong, huyện Tuy Viễn, phủ Qui Nhơn
(nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định).

đấu với hổ. Mặc dù con hổ nhanh lẹ tránh những đường kiếm và vồ chụp tới tấp, nhưng cuối cùng
cũng bị một nhát kiếm nơi vai và gầm lên một tiếng rung chuyển núi rừng rồi bỏ chạy. Lúc này Bùi
Thị Xuân mới lo băng bó cho tráng sĩ và hỏi tên, thì được đáp: Trần Quang Diệu.
Thoát chết, Trần yêu cầu đưa mình về Kiên Mỹ, nhà Nguyễn Nhạc. Thực ra, lúc này cả ba người:
Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu và Nguyễn Nhạc mới gặp mặt nhau, chứ trước đây họ chỉ nghe tên.
Từ đó, cả ba người càng trở nên thân thiết, Nguyễn Nhạc đã đứng ra làm chủ hôn, hợp thành đôi lứa
cho Diệu và Xuân, để từ đây đôi vợ chồng này gắn bó suốt đời với sự nghiệp nhà Tây Sơn.
III. CON NGƯỜI
1. Bùi Thị Xuân : Nữ tướng tài ba
Trong hàng tướng lĩnh của vua Quang Trung cũng có khá nhiều nữ tướng. Nổi bật hơn cả là 5 vị,
thường gọi là "Tây Sơn ngũ phụng thư".
Đứng đầu là Đô đốc Bùi Thị Xuân, tên rất quen thuộc trong sử sách. Bà Xuân người làng Xuân
Hòa, nay thuộc xã Bình Phú, huyện Tây Sơn. Bà xinh đẹp, giỏi võ nghệ, thường sử dụng song kiếm.
Đô đốc Nguyễn Thị Dung, người làng Phổ Lạc, nay thuộc xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức, tỉnh
Quảng Ngãi. Bà là em ruột quan Thái bảo Nguyễn Văn Xuân và là vợ Đô đốc Trương Đăng Đồ
(người thôn Mỹ Khê, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh). Trương Đăng Đồ vừa là văn thần vừa là võ
tướng của Quang Trung.
Nữ tướng Huỳnh Thị Cúc, người làng Dương Quang, nay thuộc xã Đức Thắng, huyện Mộ Đức.
Bà là em ruột Đô đốc Huỳnh Văn Thuận, một vị tướng giỏi của quân Tây Sơn.
Nữ tướng Bùi Thị Nhạn là con út của ông Bùi Đắc Lương, một nhà giàu ở thôn Xuân Hòa. Bà là
cô họ của Đô đốc Bùi Thị Xuân nhưng tuổi cùng trang lứa. Theo tác giả "Nhà Tây Sơn" là Quách Tấn
- Quách Giao thì "Bùi Thị Nhạn kết duyên cùng Nguyễn Huệ sau khi bà Phạm Thị Liên (vợ trước của
ông) qua đời."
Nữ tướng Trần Thị Lan là em ruột bà Trần Thị Huệ (vợ đầu của Nguyễn Nhạc), người thôn
Trường Định, huyện Tuy Viễn. Bà rất giỏi võ nghệ, kiếm thuật, luyện thân đi nhẹ như chim én nên có
tên hiệu Ngọc Yến. Bà là vợ Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết.
Bùi Thi Xuân quy phục được voi, giải thích của Cân quắc anh hùng truyện cũng có khác với lời
truyền khẩu. Theo đó thì có một lần Bùi Thị Xuân đang dạo chơi săn bắn gần khe núi bỗng thấy cây
cối rung chuyển, gió thổi ào ào rồi một tiếng rống thảm thiết vang lên. Dưới khe một con voi trắng bị
một con mãng xà khổng lồ quấn chặt đang dẫy dụa chờ chết.

Chúa Nguyễn gằn giọng: Người có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh?
Bà đáp: Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt
chân được tới đất Bắc Hà…
Thế rồi vào ngày 6 tháng 11 năm Nhâm Tuất (20-11-1802, các sách ghi không đồng nhất, có sách
ghi là 2/ 11, có sách ghi là 30/11), vua tôi nhà Tây Sơn trong đó có Bùi Thị Xuân cùng chồng con bị
đưa ra pháp trường tại Phú Xuân. Chồng bà bị xử tội lột da, còn bà cùng con gái độc nhất 15 tuổi tên
Trần Bích Xuân bị xử voi giày (bãi chém An Hoà, ngoại ô Huế, ở đó khoảng 200 tướng lĩnh của nhà
Tây Sơn đã hiên ngang ra pháp trường )
Theo tư liệu của một giáo sĩ phương Tây De La Bissachère viết năm 1807- người có dịp chứng
kiến - đã miêu tả buổi hành hình được tóm lược như sau: “Đứa con gái trẻ của bà ( Bùi Thị Xuân) bị
lột hết y phục. Một thớt voi từ từ tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy. Nàng
ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách: Con nhà tướng không được khiếp
nhược !…
Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình
thản bước lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng
bắn hỏa pháo, đâm cây nhọn sau đít con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà
tung lên trời… Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi ngày mà bỏ chạy
vòng quanh pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt
theo…….
Có những câu chuyện kể về cái chết của Bùi Thị Xuân chỉ dừng lại ở chi tiết trên. Song cũng có
những câu chuyện kể tiếp về cái chết của bà. Đó chính là sau khi thấy con voi hung hãn không giết
chết Bùi Thị Xuân, vua Gia Long sai bọn lính lấy vải nhúng sáp nóng đem quấn khắp người nữ kiệt
rồi đem cột nơi trụ sắt dựng giữa trời, đoạn châm lửa đốt. Nữ kiệt bình thản mặt không một chút thay
đổi. Lửa cháy phừng phực từ dưới lên. Sáng chói thấu mây xanh. Thế rồi một làn quang thanh bay vút
lên trời xanh, trời bỗng tối sầm lại rồi mưa như trút nước
Hằng năm vào ngày mùng 6 tháng 11 âm lịch, dòng họ Bùi tại thôn Xuân Hòa đều tổ chức một
buổi cúng tế nữ tướng Bùi Thị Xuân
ĐỀ TÀI: ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
Người thực hiện: Tô Thanh Loan
Lớp: A3K18

công tác vận động thanh niên của Đảng. Xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt ấy, được sự đồng ý của Bộ
Chính trị và Bác Hồ, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III (họp từ ngày 22 đến 25/3/1961 tại Hà Nội) đã
quyết định lấy ngày 26/3/1931 là ngày thành lập Đoàn.
II. MỤC ĐÍCH LÝ TƯỞNG CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
III. TÍNH CHẤT ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
Điều lệ Đoàn khẳng định: “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị-xã hội
của thanh niên Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo
và rèn luyện”. Điều này phản ánh đầy đủ Đoàn là một tổ chức thanh niên Cộng sản mang tính tiên
tiến của giai cấp công nhân và tính quần chúng rộng rãi của thanh niên Việt Nam thông qua việc mở
rộng các hoạt động có tính chất xã hội, mỗi đoàn viên và tổ chức cơ sở Đoàn thể hiện tính tiên tiến,
vai trò nòng cốt của mình trong phong trào thanh niên và các hội của thanh niên.
IV. CHỨC NĂNG CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
Đoàn có 3 chức năng:
- Đoàn là Đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, Nhà
nước và các ngành. Đoàn luôn luôn xác định nhiệm vụ của mình là đội quân xung kích cách
mạng tích cực tham gia xây dựng Đảng và là người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng và của Bác Hồ.
- Đoàn là Trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, tạo môi trường đưa thanh niên vào
các hoạt động giúp học tập rèn luyện và phát triển nhân cách, năng lực của người lao động
mới phù hợp với yêu cầu cảu xã hội hiện nay.
- Đoàn là Người đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tuổi trẻ. Chức năng này
khẳng định rõ tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức của thanh niên, vì thanh niên.
V. VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
Đoàn là thành viên trong hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong hệ thống này Đảng là người lãnh đạo, Đoàn là
một trong các tổ chức thành viên.
- Đối với Đảng: Đoàn là hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, là đội dự bị tin cậy
của Đảng, nguồn cung cấp cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng.

thứ 2, Trung ương Đảng đã giành một phần quan trọng trong chương trình làm việc để bàn về công
tác thanh niên và đi đến những quyết định có ý nghĩa đặc biệt, như các cấp ủy Đảng từ Trung ương
đến địa phương phải cử ngay các ủy viên của Đảng phụ trách công tác Đoàn.
Trước sự phát triển lớn mạnh của Đoàn trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, ở nước ta xuất hiện
nhiều tổ chức Đoàn cơ sở với khoảng 1.500 đoàn viên và một số địa phương đã hình thành tổ chức
Đoàn từ xã, huyện đến cơ sở. Sự phát triển lớn mạnh của Đoàn đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi cấp
bách của phong trào thanh niên nước ta. Đó là sự vận động khách quan phù hợp với cách mạng nước
ta; đồng thời, phản ánh công lao trời biển của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng kính yêu -
Người đã sáng lập và rèn luyện tổ chức Đoàn. Được Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng và
Bác Hồ cho phép, theo đề nghị của Trung ương Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam, Đại hội toàn
quốc lần thứ 3 họp từ ngày 22 - 25/3/1961 đã quyết định lấy ngày 26/3/1931 (một ngày trong thời gian
cuối của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2, dành để bàn bạc và quyết định những vấn đề rất quan
trọng đối với công tác thanh niên) làm ngày thành lập Đoàn hàng năm. Ngày 26/3 trở thành ngày vẻ
vang của tuổi trẻ Việt Nam, của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh quang vinh.
Từ ngày 26/3/1931 đến nay, để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng, Đoàn đã
đổi tên nhiều lần:
• Từ 1931 - 1936: Đoàn TNCS Việt Nam, Đoàn TNCS Đông Dương
• Từ 1937 - 1939: Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương
• Từ 11/1939 - 1941: Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương
• Từ 5/1941 - 1956: Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam
• Từ 25/10/1956 - 1970: Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam
• Từ 2/1970 - 11/1976: Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh
• Từ 12/1976 đến nay: Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Những thế hệ thanh niên kế tiếp nhau đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do của Tổ Quốc, vì chủ
nghĩa xã hội đã liên tiếp lập nên những chiến công xuất sắc và trưởng thành vượt bậc.
ĐỀ TÀI: HƯỚNG ĐẠO VIỆT NAM
Người thực hiện: Đinh Thị Trà Ly
Lớp: A3K18
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Lịch sử phong trào Hướng đạo Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử đất nước. Tuy chỉ là một phong

- Năm 1938, khánh thành Trại trường Bạch Mã với các khóa huấn luyện đầu tiên cho Thiếu, Tráng
và tiếp theo các khóa huấn luyện cao cấp hơn.
- Từ năm 1940 các trại họp bạn lần lượt được tổ chức ở Bắc Ninh, Huế (1941), Ninh Bình (1942),
Nha Trang (1943).
- Tháng 8 năm 1945, Liên hội Hướng đạo Đông dương giải tán, Hội Hướng đạo Việt Nam được
chính thức thành lập, một cuộc họp bạn toàn quốc được tổ chức tại Hà Nội (khu đại học xá Bạch Mai)
để đánh dấu sự kiện này.
2. Giai đoạn 1946 - 1954
- Năm 1946, Hội nghị Trưởng toàn quốc đã thống nhất phong trào Hướng đạo của 3 miền Nam,
Trung, Bắc dưới tên Hội Hướng đạo Việt Nam và thành lập Bộ Tổng Ủy viên Hội. Tháng 5 năm
1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập đã nhận lời làm
Hội trưởng Danh dự của Hội Hướng đạo Việt Nam.
- Cuối năm 1946, chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, phong trào Hướng đạo VN phải tạm ngưng hoạt
động cho đến năm 1950. Trong quãng thời gian này, gần như toàn thể Bộ Tổng Ủy viên Hội Hướng
đạo Việt Nam thành lập năm 1946 đều cùng Trưởng Hoàng Đạo Thúy vào chiến khu. Các trưởng và
hướng đạo sinh còn lại ở thành thị bắt đầu khôi phục phong trào Hướng đạo kể từ năm 1950, đặc biệt
là tại Hà Nội.
- Năm 1954 tại Genève (Thụy Sĩ), sau khi quân đội Pháp thua trận tại Điện Biên Phủ, đã diễn ra
một cuộc hội nghị nhằm tiến tới một giải pháp chính trị cho cuộc chiến tại VN. Trong phái đoàn Việt
Minh tại Genève có Trưởng Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Quốc phòng, là cựu Tổng Ủy
viên Hướng đạo và bên kia, trong phái đoàn Quốc gia Việt Nam là 2 trưởng Hướng đạo khác: Trần
Văn Tuyên và Cung Giũ Nguyên.
Sau khi Hiệp định Genève được ký kết tháng 7 năm 1954, phân chia lãnh thỗ làm 2 phần, phong
trào Hướng đạo không còn hoạt động ở miền Bắc, ở miền Nam vẫn tiếp tục, trụ sở của Hội Hướng
đạo Việt Nam chuyển vào Huế rồi vào Sài Gòn.
3. Giai đoạn 1954 – 1975
- Năm 1955, Trại trường Hồi Nguyên được thiết lập tại Bảo Lộc, qua năm sau khai giảng các khóa
huấn luyện đào tạo trưởng dự bị ngành Ấu, Thiếu và Tráng.
- Năm 1957, Hội Hướng đạo Việt Nam được công nhận là hội viên của Tổ chức Phong trào Hướng
đạo Thế giới (World Organization of Scouting Movement). Tháng 4 năm này, Hội Nữ Hướng đạo

của Đoàn trường ĐHTCKT với trang phục như các Hướng đạo sinh ngày trước, sinh hoạt hằng tuần
tại công viên Tao Đàn và các nơi công cộng khác. “CLB Người dẫn đường” đã tổ chức được nhiều
lần cắm trại và 2 lần công tác xã hội. Trong lần cắm trại và công tác xã hội tại bờ 18ong Lô 1 Cư xá
Thanh Đa, phóng viên Hàng Phước Long của báo Tuổi Trẻ đã đưa tin và ảnh của hoạt động CLB như
là một hình thức sinh hoạt lành mạnh, nét đẹp mới cần được nhân rộng trong giới trẻ. Sau khoảng 1
năm, hoạt động của “CLB Người dẫn đường” phải ngưng vì sự “giẫm chân” với Đoàn trường
ĐHTCKT nhưng “mô hình thử nghiệm” và đặc biệt là loại hình công tác xã hội của “CLB Người dẫn
đường” đã được Thành đoàn Tp.HCM vận dụng vào sinh hoạt của Thành đoàn từ đó.
- Ngày 31 tháng 5 năm 1993 tại Hà Nội, Trưởng Hoàng Đạo Thúy và một số trưởng khác đã tổ
chức ngày họp mặt Truyền thống Hướng đạo Việt Nam đầu tiên tại miền Bắc kể từ năm 1954 nhằm
tái lập phong trào Hướng đạo nhưng chưa có kết quả vào lúc đó. Trưởng Hoàng Đạo Thúy mất ngày
14/2/1994, ông là một trong hai người đồng sáng lập Hướng đạo Việt Nam, đã cố gắng nhưng chưa
hoàn thành tâm nguyện trong việc tái lập Hội Hướng đạo Việt Nam trước khi mất.
Cho đến hiện nay, rất nhiều đơn vị Hướng đạo Việt Nam tự phát thành lập và hoạt động với số
ước lượng khoảng 6.000 Hướng đạo sinh. Đa số các đơn vị tập trung nhiều nhất ở Tp.Hồ chí Minh, có
50 liên đoàn (khoảng 4.000 HĐS), sinh hoạt hầu hết tại các công viên trong thành phố như Tao Đàn,
Lê Thị Riêng, Hoàng Văn Thụ … Các tỉnh, thành khác cũng có các đơn vị Hướng đạo hoạt động như:
Đà Nẵng có 5 liên đoàn, Huế có 4 liên đoàn, Bà Rịa Vũng Tàu có 1 liên đoàn, Lâm Đồng có 1 liên
đoàn, và các địa phương khác cũng đều có đơn vị Hướng đạo hoạt động như là Đồng Nai, Nha trang,
Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
ĐỀ TÀI: TRẦN KHÁT CHÂN
Người thực hiện: Nguyễn Văn Mạnh
Lớp: A3K18
I. TIỂU SỬ
Trần Khát Chân là người thuộc dòng dõi của
Trần Bình Trọng quê ở Hà Lãng, huyện Vĩnh
Ninh. Đất quê ông nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Ông
sinh năm Canh Tuất (1370) (tư liệu này là của các
tác giả Sổ tay nhân vật lịch sử Việt Nam.-H.: Giáo
dục, 1990.-Tr.19). Nếu các tác giả Sổ tay nhân vật

cách bài binh bố trận của quân ta. Chiến thuyền giặc chưa kịp ổn định hàng ngũ, thì có tên bề tôi nhỏ
của (Chế) Bồng Nga là Ba Lậu Kê, vì bị (Chế) Bồng Nga trách phạt, sợ bị giết, đã chạy sang trại quân
của ta, chỉ vào chiếc chiến thuyền sơn màu xanh, nói rằng đó là thuyền của vua nước hắn. (Trần) Khát
Chân hạ lệnh cho quân sĩ, nhất tề nhả đạn. Thuyền của (Chế) Bồng Nga bị lủng ván và (Chế) Bồng
Nga trúng đạn mà chết. Người trong thuyền hắn kêu khóc ầm ĩ cả lên. (Trần) Nguyên Diệu vội cắt lấy
đầu của (Chế) Bồng Nga chạy về với quan quân (để mong được tha tội - NKT), nhưng tướng giữ chức
Đại đội phó Thượng Đô ở quân Long Tiệp là Phạm Nhữ Lặc và viên Đầu ngũ là Dương Ngang liền
giết luôn cả (Trần) Nguyên Diệu, chiếm lấy đầu của (Chế) Bồng Nga. Quân giặc liền tan vỡ.
(Trần) Khát Chân liền sai viên Giám quân là Lê Khắc Khiêm, bỏ đầu giặc vào hòm, chạy thuyền
gấp về hành tại (của Thượng Hoàng) ở Bình Than để báo tin thắng trận. Bấy giờ, đồng hồ đã điểm
canh ba (tức vào khoảng từ 23 giờ khuya đến 1 giờ sáng - NKT), Thượng Hoàng đang ngủ say, giật
mình tỉnh giấc, cứ ngỡ là quân giặc đã đánh vào đến tận ngự doanh (chỉ nơi ở của Thượng Hoàng
hoặc là vua ở ngoài kinh đô - NKT). Đến khi nghe tin thắng trận, lại lấy được cả đầu của (Chế) Bồng
Nga, thì rất là vui mừng. (Thượng Hoàng) liền cho gọi các quan đến để xem cho kỹ. Các quan mặc
triều phục, đến và hô “vạn tuế !”. Thượng Hoàng nói:
Ta với (Chế) Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, nhưng mà nay mới thấy mặt nhau. Việc này nào có
khác gì chuyện Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Võ. Thiên hạ yên rồi” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ.
quyển 8, tờ 17a-b và tờ 18-a).
Chiến thắng của Trần Khát Chân đã khiến cho quân Chiêm Thành phải ngưng các cuộc tấn công
vào Đại Việt, nhưng, thiên hạ chưa phải là đã được yên như lời của Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông.
Sau khi lập được công lớn này, Trần Khát Chân được phong làm Long Tiệp Phụng Thần Nội vệ
Thượng tướng quân, tước Vũ Tiết Quan Nội Hầu. Rất tiếc là ông đủ tài năng và dũng khí để giết Chế
Bồng Nga nhưng lại không sao có thể bảo toàn được tấm thân trước những biến cố phức tạp của triều
Trần diễn ra sau đó chẳng bao lâu.
2. Trần Khát Chân và kế hoạch mưu sát Hồ Quý Ly
Bấy giờ, Hồ Quý Ly ngày một chuyên quyền, mưu cướp ngôi của họ Trần đã thể hiện ngày một rõ.
Những việc làm độc ác của Hồ Quý Ly đã làm cho một số quan lại ôm ấp tư tưởng trung thành với họ
Trần càng thêm bất mãn. Họ cấu kết với nhau tìm cách mưu sát Hồ Quý Ly. Trong số đó có anh em
Trần Khát Chân và Trần Nguyên Hạng. Mùa hạ năm 1399, Hồ Quý Ly tổ chức hội thề trên đỉnh núi
Đốn Sơn. Quý Ly ngồi trên lầu nhà Khát Chân để xem. Phạm Thu Tổ và thích khách Phạm Ngưu Tất

• Trần Anh Tông ( 1293-1319)
• Trần Minh Tông (1314-1329)
• Trần Hiến Tông (1329-1330)
Ông mất tháng 7 năm 1330 hương thọ 84 tuổi .Ông được đưa về yên nghỉ tại Giáp Sơn
II. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
Năm Bảo Phù thứ 3 đời Trần Thánh Tông, triều đình đã tổ chức khoa thi Thái học sinh (cuối đời
Trần, cải danh thành tiến sĩ). Để tuyển chọn nhân tài giúp nước, khoa này đã lấy đỗ được 30 người,
Đỗ Khắc Chung đã may mắn nằm ở danh sách tam khôi: Đào Tiêu – người Nông Sơn, Thanh Hoa đỗ
Trạng nguyên. Đỗ Khắc Chung người Giáp Sơn – Hải Dương đỗ Bảng nhãn. Quách Dũng người Yên
Dũng Bắc Giang đỗ Thám hoa. 27 người khác đỗ thái học sinh. Sau khi được vinh dự tên yết bảng
vàng, các vị thái học sinh tân khoa còn được ban nhiều ân huệ khác theo thứ bậc của vua. Họ được
cho dự tiệc trong cung vua,được thưởng tiền, được cho cưỡi ngựa đi xem nhiều thắng cảnh đẹp của
kinh thành. Ân huệ sau hêt là được vinh quy mặc áo gấm vua ban về lạy trước bàn thờ tổ tiên để khoe
sự thành đạt của con cháu. Mười năm đèn sách biển cũng thành non, đối với những người học trò,
trong bóng tối bỗng bước lên địa vị cao sang của xã hội, thật chẳn còn vinh dự nào hơn. Cả xã Giáp
Sơn rất ngạc nhiên khi nghe loa kêu, mõ giục, họ phải ăn mặc chỉnh tề đi đón quan bảng nhãn Đỗ
Khắc Chung. Đây là niềm vinh dự lớn cho dòng họ Đỗ và cho cả xã Sóc Sơn. Thật tình, trước đây
chưa mấy ai quên vị quan lớn. Vị quan lớn ấy còn bị đánh giá là một đứa trẻ mất nết hư thân, nhưng
phải coi như không nhớ gì chuyện cũ, họ không thể không hết lòng phục sự phục thiện, sự cải sửa
chuyên cần hết lòng “dùi mài kinh sử” và nhất là tài hoa của họ đỗ. Họ không thể không hãnh diện về
ông bảng nhãn của xã Giáp Sơn-người trẻ tuổi nhất trong các ông thái học sinh tân khoa. Mai đây nữa,
ông bảng nhãn sẽ trở thành người trụ cột của quốc gia ơn vua lợi nước tôi rơi vào,biết đâu họ chẳng
có lúc nương bóng. Vì thế cả xã Giáp Sơn phan biệt nương thương hương hạ, đua nhau đóng góp tài
vật để tổ chức vui nhộn tưng bừng suốt mấy hôm liền.
Đỗ Khắc Chung ở lại quê 3 tháng thì có chiếu nhà vua bổ nhiệm về kinh bổ dụng. Ban đầu vua
Thánh Tông cho giữ chức chi hậu cục thư,luôn đi theo vua lo chuyện văn thư bút mực. Khắc Chung
làm viẹc gì cũng thông minh mau lẹ nên được vua yêu mến lắm. Khắc Chung có nhìeu đóng góp cho
việc nước. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông-Nguyên ông cùng với 1 số tướng tài
khác lập nên nhiều chiến công lớn. Vào ngày 29 tháng Giêng năm 1285, giặc Nguyên-Mông đánh vào
Gia Lâm, Đông Ngàn bắt được quân nhà Trần, thấy người nào cũng thích chữ “Sát thát” bằng mực

Vương Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành.
Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý làm hồi môn, vua Trần Anh Tông đồng ý gả Huyền
Trân cho Chế Mân. Huyền Trân về Chiêm Thành, được phong làm hoàng hậu Paramecvari. Một năm
sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5 năm 1307, quốc
vương Chế Mân băng hà. Thế tử Chiêm sai sứ sang Đại Việt báo tang. Theo tục nước Chiêm, khi vua
chết hoàng hậu phải lên dàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần Khắc Chung vờ
sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân. Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền
Trân đưa xuống thuyền, đưa Huyền Trân về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới
một năm và theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa.
Nói về Huyền Trân công chúa. Trước lúc về đồng làm “mẫu nghi thiên hạ” Chiêm Thành theo ý
chỉ nhà vua, nàng đang sẵn mối tình với một vị tướng tài trong triều Trần là Lê Chung. Do bởi thấu
triệt lẽ sinh diệt của luân hồi và ái tình, do bởi lòng từ bi đức hạnh của nàng đã tỏa sáng nên vì sự bình
yên và lợi lạc của nhân dân hai nước mà nàng nguyện theo Chế Mân. Quyết định sáng suốt đó chứng
tỏ nàng ứng thân một vị đại Bồ Tát. Noi gương Phật cha là hành đại nguyện Đầu Đà, mang lại lợi lạc
cho tha nhân. Bởi lẽ ấy, huyền thoại về Huyền Trân và mối tình tay ba giữa nàng với Lê Chung và vua
Chiêm trở nên toàn mĩ, người người tôn thờ theo suốt dòng lịch sử nhân sinh Việt Nam.
Tháng 8 năm Mậu Thân (1308), Huyền Trân về đến Thăng Long. Theo di mệnh của Thượng
hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm (1309),
dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương
Tràng.
Cuối năm Tân Hợi (1311), Hương Tràng cùng một thị nữ trước đây, bấy giờ đã qui y đến làng Hổ
Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am tranh
trở thành điện Phật, tức chùa Nộm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự.

Trích đoạn SỰ NGHIỆP 1 Giai đoạn Đoàn Nhữ Cẩu, Đồng binh chương sự: bòn rút khẩu phần của lính, các đồ binh khí đã cũ hỏng vẫn Người học trò xuất sắc của Chu Văn An Nhà thơ yêu nước
Nhờ tải bản gốc
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status