Thực trạng công tác chuẩn bị quỹ nhà ở, đất ở tái định cư trên địa bàn thành phố Hà Nội (83 trang) - Pdf 81

LỜI MỞ ĐẦU
Nhằm phát triển Thủ đô Hà Nội theo hướng hiện đại, văn minh, giàu
đẹp góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa thủ đô để Thủ đô Hà
Nội xứng đáng là thủ đô của một nước 100 triệu dân, trong những năm qua
thành phố Hà Nội đã phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực văn hóa, kinh tế,
giáo dục…Hàng ngàn dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông, thủy
lợi, hệ thống điện, hệ thống thông tin liên lạc, các công trình phục vụ trong
lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục, thể dục thể thao, khoa học và kỹ thuật, các
dự án xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, các khu đô thị mới…đã và đang được xây dựng và phát triển. Nhu
cầu đất đai cho các dự án này ngày càng lớn đã tạo ra sức ép rất lớn cho công
tác giải phóng mặt bằng. Công tác giải phóng mặt bằng được thực hiện tốt thì
tiến độ dự án mới nhanh . Nhưng trên thực tế vấn đề đền bù giải phóng mặt
bằng không chỉ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ thi công các công
trình xây dựng, mà còn tác động rất nhiều đến chất lượng và giá thành công
trình.
Tuy nhiên công tác giải phóng mặt bằng nhanh hay chậm lại phụ thuộc
phần lớn vào chính sách bồi thường thiệt hại của Nhà nước đối với đối tượng
trong diện bị giải toả. Các phương án bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu
hồi đất là bồi thường bằng tiền, bồi thường bằng đất ở hay bố trí các hộ dân
vào các khu tái định cư…Với truyền thống trồng lúa nước, tâm lý an cư lạc
nghiệp, người dân luôn muốn được đền bù bằng nhà, đất hơn là đền bù bằng
tiền vì có ổn định chỗ ở thì mới có thể yên tâm sản xuất, làm ăn.
Vì vậy, bên cạnh việc đền bù bằng tiền, Nhà nước đã chuẩn bị quỹ nhà,
quỹ đất tái định cư nhằm bố trí các hộ dân bị giải toả vào các khu tái định cư
tập trung đảm bảo cho các hộ dân có chỗ ở ổn định, đảm bảo tái định cư theo
quy hoạch, đảm bảo các cơ hội duy trì thu nhập sau khi bị di chuyển chỗ ở, và
ổn định cuộc sống của người dân.

1
Nhận thấy tầm quan trọng của quỹ nhà đất tái định cư đối với tiến độ

CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC CHUẨN BI
QUỸ NHÀ Ở, ĐẤT Ở TÁI ĐỊNH CƯ PHỤC VỤ GPMB
I. SƠ LƯỢC VỀ VẤN ĐỀ GPMB
1. GPMB là vấn đề tất yếu của quá trình phát triển
Trong lịch sử phát triển của mọi quốc gia, mọi giai đoạn việc giải
phóng mặt bằng để xây dựng công trình là không thể tránh khỏi, nhịp độ phát
triển càng lớn thì nhu cầu GPMB càng cao và trở thành một thách thức ngày
càng nghiêm trọng đối với sự thành công không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà
cả ở trong các lĩnh vực xã hội, chính trị trên phạm vi quốc gia.
Trong quá trình phát triển của đất nước, sự xuất hiện và hình thành các
đô thị là một điều tất yếu, khách quan, đó là quá trình tập trung dân số vào các
đô thị, hình thành nhanh chóng các điểm dân cư đô thị trên cơ sở phát triển
sản xuất và đời sống. Đô thị được xem là điểm dân cư tập trung với mật độ
cao, chủ yếu là lao đọng phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung
tâm tổng hợp hay chuyên nghành, có vai trò thúc đẩy sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, của một
huyện hoặc một vùng trong tỉnh, huyện. Đ ể hình thành và phát triển cơ sở hạ
tầng kĩ thuật đô thị, điều này được xem là một phần của sự phát triển, thì luôn
diễn ra quá trình phân bổ lại quỹ đất đai cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Khi các nghành sản xuất công nghiệp, giao
thông, du lịch, dịch vụ, thương mại… tăng dần tỷ trọng trong tổng sản phẩm
thu nhập quốc dân (GDP) thì việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp,
lâm nghiệp, đất làm nhà ở sang đất chuyên dùng sử dụng vào các mục đích
công nghiệp, giao thông, du lịch, thương mại…là đièu tất yếu và diễn ra ngày
càng mạnh mẽ. Một quốc gia cành phát triển, thì tỷ lệ đất chuyên dùng (đặc
biệt là đất sử dụng vào các mục đích công nghiệp®, du lịch, dịch vụ) càng cao
và tỷ lệ đất nông nghiệp càng thấp. Vấn đề đặt ra là nhà nước cần có quy

3

4
mà cồn để lại nhiều hậu quả nặng nề không thể xử lý được bằng tiền. Có thể
khẳng định rằng đền bù và giải phóng mặt bằng là vấn đề của phát triển, là
nội dung không thể né tránh của phát triển, và chính nó là một yếu tố quyết
định của tiến bộ xã hội và sự thành công của phát triển, bất kỳ một giải pháp
nào mà thiếu đồng bộ, không chặt chẽ đều để lại hậu quả tiêu cực.
2. Công tác đền bù Giải phóng mặt bằng
2.1. Thực chất của đền bù giải phóng mặt bằng.
Luật đất đai năm 2003 quy định: “ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
nhà nước đại diện chủ sở hữu”. Vì vậy nhà nước nắm trong tay quyền chiếm
hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng đất đối với toàn bộ đất đai trên phạm
vi lãnh thổ đất nước. Nắm trong tay quyền định đoạt, nhà nước có quyền
quyết định số phận pháp lý của đất đai đồng thời có quyền lợi dụng tính năng
của đất để phục vụ cho lợi ích kinh tế và đời sống của con người. Nhà nước
trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất
(có thu tiền hoặc không thu tiền SDĐ c), cho thuê đất, công nhận quyền sdđ
đối với người đang sử dụng đất ổn định. Người sdđ có quyền lợi dụng tính
năng của đất phục vụ lợi ích cho mình, đồng thời phải sử dụng đất theo đúng
mục đích và thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, trong đó người sử dụng đất
có nghĩa vụ “ Giao lại đất trong khi nhà nứoc có quyết địnhthu hồi hoặc khi
hết thời hạn sử dụng đất”.
Khi nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế xã
hội, mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì vô
tình nhà nước đã vi phạm vào quyền sử dụng đất của người sử dụng, làm ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của người sdđ nên phải đền bù cho họ khi tiến
hành thu hồi đất.
Đền bù GPMB được hiểu là việc chi trả lại đầy đủ tương xứng những
thiệt hại về đất đai, nhà ở, vật kiến trúc, công trình hạ tầng kỹ thuật, cây cối,
hoa màu và các chi phí khác để ổn định đời sống, sản xuất, chuyển đổi nghề
nghiệp cho người bị thu hồi đất đai, tài sản trên đất khi nhà nước thu hồi đất

khoản bồi thường “ càng nhiều càng tốt” mà trước hết phải là thoả đáng; mặt

6
khác trong nội bộ những người được đền bù có người chấp hành tốt chíng
sách đất đai của nhà nước, có người chấp hành chưa tốt, do đó đòi hỏi xử lý
sao công bằn cũng là một viếc hết sức khó khăn.
Nghiên cứu tìm hiểu tận gốc rễ của vấn đề đền bù thiệt hại, GPMB đề
ra một chính sách hợp lý, đủ chi tiết và dự kiến trước mọi tình huống để giả
quyết hài hoà, thoả đáng quyền lợi của người được giao đất và người bị thu
hồi đất là rất cần thiết, góp phần tạo động lực phát triển.
Kể từ thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế ở miền Bắc cho đến trước
khi có luật đất đai năm 1993, để phục vụ cho việc lấy đất xây dựng các công
trình của nhà nước, các chính sách về đền bù thiệt hại đã được ban hành, cụ
thể là: Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 của hội đồng chính phủ quy
định tạm thời về trưng dụng đất; Thông tư số 1792/Ttg ngày 11/01/1970 của
phủ thủ tướng quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai,
cây cối, các hoa màu cho nhâ dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng
thành phố. Do ở thời kỳ này đất đai chưa được thừa nhận là có giá cho nên
các chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng còn nhiều hạn chế, thể hiện
trong cách tính giá trị bồi thường, phương án thực hiện. Đến khi nhà nước xác
lập quyền sở hữu duy nhất và tuyệt đối về đất đai tại hiến pháp 1980, Hội
đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết địnhvề đền bù thiệt hại đất nông nghiệp,
lâm nghiệp, đất có rừng sang sử dụng vào mục đích khác hơn là chính sáhc
GPMB hiện nay.
Hiến pháp năm 1992 ra đời đã đặt nền móng cho việc xây dựng chính
sách bồi thường, GPMB qua những điều khoản quy định cụ thể sau:
Điều 17: “ Đất đai… thuộc sở hữu toàn dân”.
Điều 18: “ nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng ổn
địnhlâu dài… Tổ chức, cá nhân…được chuyển quyền sử dụng đất được nhà
nước giao theo quyết định của pháp luật”.

phương.

8
Nhân thấy những bất cập trên, chính phủ đã ra NĐ số 22/1998/NĐ-CP
ngày 24/4/1998 thay thế nghị định số 90/1994/NĐ-CP; về cơ bản có kế thừa
một số quy định của nghị định số 90 và có một số quy định như tiền đền bù
thiệt hại về đất vẫn theo quy định của chính phủ, nhưng được nhân với hệ số
k, để đảm bảo giá đất tính đền bù phù hợp với khả năng sinh lời và giá chuyển
nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương; Quy định rõ hơn về vấn đề tái định
cư; chính sách hỗ trợ có lợi nhiều hơn cho người bị thu hồi đất. Tuy vậy, sau
một thời gian thực hiện, nghị định 22/CP cũng đã có những hạn chế sau: Mặc
dù giá dất tính đền bù được nhân theo hệ số K nhưng vẫn còn quá thấp so với
thời giá thị trường, chưa có sự thống nhất về cách xác định giáất giữa các địa
phương, chưa làm rõ trách nhiệm của UBND các cấp, các nghành, chủ dự án
trong công tác GPMB, chưa quy định việc bồi thường, hỗ trợ cho người bị
ảnh hưởng… Vì vậy luật đất đai năm 2003 ra đời, chính sách về đèn bù thiệt
hại GPMB & tái định cư đã được quy đinh rõ trong nghị định 197/2004/NĐ-
CP ngày 03/12/2004. Nghị định 197 ra đời thay thế cho nghị định 22? CP quy
định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, mục
đích phát triển kinh tế.
2.2. Phạm vi áp dụng và đối tượng được đền bù trong chính sách:
Phạmvi áp dụng chính sách bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
được quy định tại NĐ197/2004/NĐ-CP : Được bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi nhaf nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích quốc phòng, lợi ích công cộng, mục đích phát triển kinh tế. Khái niệm
này bao gồm cả đất sử dụng cho các dự án sản xuất kinh doanh, khu chế xuất,
khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu vui chơi giải trí, khu du lịch, khu đô
thị mới, khu dân cư tập trung và các dự án đầu tưhoặc phát triểnkhác đã được
cơ quan nhà nứoccó thẩm quyền quyết định và đất sử dụng xây dựng các công

Về hạn mức bồi thường đất ở: Diện tích đất ở bồi thường cho mỗi hộ
gia đình theo hạn mức đátt ở do UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung
ương quyết định, nhưng không vượt qua diện tích đất bị thu hồi. Trong trường

10
hơp đất ở bị thu hồi đất ở có thể được đền bù thêm một phần diện tích đất ở
tuỳ theo quyết định của địa phương, phần còn lại thì được đền bù bằng tiền.
NĐ 197/2004/NĐ-CP cũng quy đinh nguyên tắc bồi thường tài sản gồm bồi
thường nhà, công trình xây dựng trên đất; bồi thường cho người thuê nhà ở
thuộc sở hữu nhà nước, bồi thường về di chuyển mồ mả; bồi thươngđối vơiứ
công trình văn hoá, di tích lịch sử., nhà thờ, đình chùa, am , miếu; bồi
thườngđối ới cây trồng vật nuôi; bồi thường cho người lao động do ngừng
việc.
Tài sản trên đất hợp pháp và có khái niệm hợp pháp hoá được bồi
thường 100% giá trị tài sản; tài sản trên đất bất hợp pháp sẽ được hỗ trợ
80%mức bồi thường hoặc không được hỗ trợ bồi thường tuỳ theo mức độ bất
hợp pháp của tài sản. Về mức tiền bồi thườngnhà và các công trình xây dựng
trên đất bằng giá trị hiẹn tại cộng với một khoản tiền bằng tỷ lệ tối đa không
lớn hơn 100% giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật
tương đương với nhà, công trình bị thiệt hại. Ngoài bồi thường về đất và bồi
thường về tài sản, NĐ 197/2004/NĐ-CP cũng quy định các chính sách hỗ trợ
như: hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ ổn định cuộc sốngvà ổn đinh ssản xuất; hỗ trợ
chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm; hỗ trợ người đang thuê nhà không
thuộc sở hữu nhà nước; hỗ trợ khi thu hồi đất công ích của dxã, phường, thị
trấn và hỗ trợ khác để đảm bảo ổn định đời sống và sản xuất cho người bị thu
hồi đất.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG NHÀ Ở TÁI ĐỊNH CƯ TRONG GIẢI
PHÓNG MẶT BẰNG.
1. Khái niệm tái định cư:
Việc thực hiện các dự án phát triển kết cấu hạ tầng, các khu công

đích xây dựng chủ yếu lấy từ đất nông nghiệp vì vậy diện tích đất thu hồi
phục vụ cho mục đích xây dựng chủ yếu lấy từ đất nông nghiệp, đất làm nhà
ở tại khu vực nông thôn và ven đô thị, và một phần đất đô thị nằm trong quy
hoạch. Nếu nhà nước không có chính sách và uy định phù hợp thì dễ dẫn đến

12
tình trạng là sau mỗi lần nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc
phồng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, mục đích kinh tế, sẽ có
thêm nhièu hộ gia đình, cá nhân lâm vào tình trạng không còn ruộng đất -tư
liệu sản xuất chính -để nuôi sống gia đình và bản thân gia đình họ. Trong khi
đó nghành nghề trong nông thôn chưa phát triển, trình độ, khả năng của người
nông dân kông thể đáp ứng được với yêu cầu cao của nền sản xuất tiên tién
trong đô thị, công nghiệp, du lịch, tình trạngmột số hộ dân không có nhà ở
trong một thời gian dài, sự chênh lệch giá cả giữa nơi ở cũ và nơi ở mới; cơ sở
hạ tầng kém hơn, sự phân tán về mặt xã hội… vì vậy nhà nước không thể để
tình trạng thực hiện dự án mang lại lợi ích ccho một số người thì lại buộc một
số cá nhân khác lâm vào tình trạng khó khăn, nghèo túng.Trong khi mục tiêu
phát triển kinh tế và xây dựng đất nước của Đảng và nhà nước ta là dân giầu
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Trong chiến lược phát triển đất
nướccó chiến lược phát triển nhà ở, nhằm tạo điều kiện cho nhân dân có chỗ ở
rộng rãi hơn, tiện nghi hơn qua mỗi thời kỳ phát triển của dất nước. Để thực
hiện được điều này nhà nước cần phải có các chính sách và biện pháp thoả
đáng giúp cho người bị ảnh hưởng bởi dự án lập lại cuộc sống của mình như
khi không có dự án, ổn định đời sóng và thu nhập.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
chúng ta không chỉ có những đô thị đẹp, hiện đại, những khu sản xuất khổng
lồ, những công trìng công cộng khang trang mà còn kèm theo đó là chỗ ở của
người dân cần phải được nâng cấp, tiện nghi hơn, rộng rãi hơn… chính vì vậy
phải tính toán một cách toàn diện, không thể có hiện tượng một công trình
mới ra đời là kéo theo những người dân không có chỗ ở hoặc chỗ ở kém hơn

mới tạo điều kiện cho người dâ sóng ổn định và phát triển.
Các phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư hiện nay là bồi thường
bằng đất, bằng tiền hoặc bố trí các hộ dân vào các khu tái định cư tạp trung thì
phương án bố trí các hộ dân vào các khu tái định cư tập trung được xem là
phương án khả thi hơn cả.

14
Phương án bồi thường bằng đất là phương án khó thực hiện hơn cả vì
đa số các địa phương đất công ích còn lại không đáng kể nên không đáp ứng
được yêu cầu đền bù bằng đất. Mặt khác, với một số lượng lớn các hộ phải di
dờiđể giải phóng mặt bằng, các hộ có diện tích đất thu hồi lớn (đất do cha ông
để lại ở khu vực nông thôn®) thì việc đền bù cho họ một diện tích đất với giá
trị tương đương là rất khó.
Trong các phương án bồi thường thiệt hại GPMB hiện nay hầu hết việc
bbồi thường cho dân đều được trả bằng tiền, trong số tiền bồi thường đó có
người dân có đủ điều kiện để tạo lập nơi ở mới có cuộc sống bằng hoặc tốt
hơn nơi ở cũ, song cũng có những người dân do nhu cầu cuộc sóng còn khó
khăn, nhiều nhu cầu chi tiêu quan trọng hơn vì vậy họ đã không đủ tiền để tạo
dựng nơi ở mới, phải sống tạm bợ với nhu cầu sống rất thấp, có thể làm cho
người dân gặp khó khăn, nghèo túng hơn sau khi phải di chuyển. Như vậy
mục tiêu lớn của quốc gia về nhà ở cho người dân phần nào hông thực hiện
được.
Do vậy, phương án bồi thường cách bố trí các hộ dân trong diện giả toả
vào các khu tái định cư được xem là phương án khả thi hết sức cần thiết. Thực
hiện phương án này không những tiết kiệm đất đai trong điều kiện quỹ đất
công ích không còn nhiều mà nhà nước còn có thể gúp người dân ổn định đời
sống tại nơi có các điều kiện về nơi ăn chốn ở bằng hợc tốt hơn trước bằng
việc xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ cho các khu tái định cư tập trung.
Mục tiêu của việc chuẩn bị quỹ nhà ở, đất ở tái định cư là:
- Đảm bảo nhu cầu và tiến độ cho việc giả phóng mặt bằng thực hiện

Trong rrường hợp thật cần thiết vì lý do qưuốc phòng, an ninh và lợi ích quốc
gia, nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhan
hoặc tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức mua, trưng dụng theo luật
định.” (Điều 23)
Còn ở bộ luật dân sự tại Điều 175 bảo vệ quyền sở hữu đã xác định:
1-Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác được pháp
luật công nhận và bảo vệ.

16
2-Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu
đối với tài sản của mình. Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, nhăn cản bất kỳ
người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm, đòi lại tài
sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật.
3-Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợ
ích quốc gia, nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của
cá nhân, pháp nhân hoặc của các chủ thể khác theo quy định của pháp luật.”
Dựa trên những cơ sở pháp lý trên, nhà nước đã có những quy định cụ
thể về tái định cư . Theo luật đất đai 2003: “ Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi
đất để bồi thường bằng nhà ở, đất ở choi người bị thu hồi đất ở mà phải di
chuyển chỗ ở. Khu tái định cư được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên
cùng một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.
Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi đất được
bồi thường bằng tiền vá được ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà
nước với đối với khu vực đô thị; Bồi thường bằng đất ở đối với khu vực nông
thôn, trường hơp giá trị quyền sử dụng đất ở bị thu hồi lớn hơn đất ở được bồi
thường thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền đối với phần chênh
lệch đó.” (Khoản3. Điều 42K)
Việc xây dựng và phát triển chính sách về tái định cư và khôi phục
cuộc sống cho những người bị ánh hưởng bởi các dự án phát triển tại nước ta

thông, công trình lớn mang tính quốc gia.
*Phạm vi tái định cư:
- Người bị thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở, di chuyển cơ sở sản
xuất kinh doanh và các cơ sở tài sản khác gắn liền với đất bị thu hồi đến nơi ở
mới mà không nhận bồi thường bằng tiền thì được bố trí tái định cư.
- Các hộ trong diện giải toả được hưởng bồi thường theo các quy địh
của nhà nước. Hình thức đền bù thông qua bố trí tái định cư sẽ được các hộ
đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền . các hộ đã dăng ký kiểm kê

18
cam kết vào tái định cư thì buộc phải vào các khu tái định cư, không được
chuyển sang phương án đền bù khác.
3.2. Lập và thực hiện dự án tái định cư:
Căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế –xã hội của địa phương; căn cứ
vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền xét duyệt,
uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm lập và thực hiện các dự án tái định
cư để đảm bảo phục vụ tái định cư cho người bị thu hồi đất phải chuyển chỗ
ở.
Việc lập dự án và xây dựng khu TĐC thực hiện theo quy định hiện
hành về quản lý đầu tư và xây dựng.
3.3. Bố trí tái định cư:
Cơ quan (tổ chức t) được UBND cấp tỉnh giao trách nhiệm bố trí tái
định cư phải thông báo cho từng hộ gia đình bị thu hồi đất, phải di chuyển chỗ
ở về dự kiến phương án bố trí tái định cư và niêm yết công khai phương án
này tại trụ sở của đơn vị, tại trụ sở UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi và tại
nơi tái định cư trong thời gian 20 ngày trước khi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt phương án bố trí tái định cư; nội dung thông báo gồm:
- Địa điểm, quy mô quỹ đất, quỹ nhà tái định cư, thiết kế, diện tích từng
lô đất, căn hộ, giá đất, giá bán nhà chung cư.
- Dự kiến bố trí các hộ vào tái định cư.

- Hỗ trợ để tạo lập một số nghề tại khu tái định cư tập trung phù hợp
cho những người lao động, đặc biệt là lao động nữ.
3.6. Quyền và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở:
*Quyền của người bị thu hồi đất phải chuyển chỗ ở:
- Đăng ký đến nơi ở tái định cư bằng văn bản.
- Được ưu tiên đăng ký hộ khẩu cho bản thân, các thành viên khác
trong gia đình về nơi ở mới và được ưu tiên chuyển trường cho các thành viên
trong gia đình đáng độ tuổi đi học.
- Được từ chối vào khu tái định cư nếu khu tái định cư không đảm bảo
các điều kiện như đã thông báo và niêm yết công khai.

20
- Được cung cấp mẫu thiết kế nhà miễn phí.
*Nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải chuyển chỗ ở:
- Thực hiện di chuyển vào khu tái định cư theo đúng thời gian theo quy
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Xây dựng nhà, công trình theo đúng quy hoạch và thực hiện các nghĩa
vụ khác theo quy định của pháp luật.
- Nộp tiền mua nhà ở hoặc tiền sử dụng đất theo quy điịnh của pháp
luật.
3.7. Nguyên tắc lựa chọn địa điểm và quy hoạch xây dựng khu tái định cư:
Quan điểm chung khi xây dựng khu tái định cư là nhằm đảm bảo sự ổn
định của người dân trong giai đoạn trước mắt và lâu dài. Như vậy thực hiện
lựa chọn địa diểm và quy hoạch xây dựng khu tái định cư cần thoả mãn các
nguyên tắc sau:
- Có thuận lợivề thủ tục thu hồi đất, giảm thiểu các chi phí đền bù thiệt
hại; Vị trí địa điểm cho phép, kết hợp khai thác sử dụng các cơ sở hạ tầng kỹ
thuật hiệm có để có thể giảm được các chi phí về xây dựng.
- Địa điểm xây dựng thích hợp còn phải phù hợp với tập tục sinh hoạt,
các thói quen trong ăn ở, đi lại của cư dân đia phương, phù hợp với các định

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHUẨN BỊ QUỸ NHÀ Ở, ĐẤT Ở
TÁI ĐỊNH CƯ PHỤC VỤ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
I. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA HÀ NỘI.
1. Đặc điểm kinh tế – xã hội.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội là đầu
mối giao thông quan trọng hàng đầu trong cả nước. Hà Nội có địa giới hành
chính giáp với 6 tỉnh:
Phía Đông giáp tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh;
Phía Tây giáp với Hà Tây và Vĩnh Phúc;
Phía Nam giáp với tỉnh Hà Tây;
Phía Bắc giáp với tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang.
Hà Nội nằm trong vùng Đông bắc bộ, đất đai màu mỡ được hình thành
chủ yếu từ phù sa hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình.
1.1.Đặc điểm về đât đai và dân cư:
Thành phố Hà Nội có 9 quận, 5 huyện với 125 phường, 9 xã và 5 thị
trấn, với tổng diện tích đất tự nhiên là 92730 ha, với dân số là 2.672.125
người (tính đến thời điểm 01/4/1999 ). Bình quân diện tích đất tự nhiên tính
theo đầu người là 347,03 m
2
/người, bình quân diện tích đất ở là
12,28m
2
/người, trong đó đất ở đô thị là 10,85m
2
/người, đất ở nông thôn là
31,2m
2
/người. Đất nông nghiệp là 41849,23 ha, chiếm 44,69%, tập

phẩm công nghiệp ngày càng phong phú với chất lượng sản phẩm ngày càng
tăng, chất lượng ngày càng được nâng cao. Ngoài 9 khu công nghiệp cũ, Hà
Nội đang hình thành và phát triển 5 khu công nghiệp tập trung, hai khu công
nghiệp vừa và nhỏ.
Các ngành thương mại – dịch vụ và các loại hình dịch vụ khác đạt
mức tăng trưởng khá với nhiều loại hình đa dạng và phong phú như: du
lịch, tài chính, ngân hàng, thương mại, thông tin liên lạc, viễn thông, tư
vấn và đào tạo, …Tổng giá trị ngành dịch vụ tăng trưởng bình quân trong
giai đoạn 2001 – 2004 là 10,2%/năm (kế hoạch là 9- 10%/năm). Bước đầu
hình thành một số loại hình dịch vụ chất lượng cao.
Nông nghiệp – nông thôn ngoại thành có bước khởi sắc: có những bước
chuyển dịch cơ cấu thích ứng. Tốc độ tăng trong ngành nông nghiệp trong
giai đoạn 2001 – 2004 đạt trung bình là 6,3%/năm (kế hoạch đề ra là 6 –

24
7%/năm). Cơ cấu kinh tế ngoại thành có chuyển biến theo hướng tăng dần tỷ
trọng tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ nông thôn. Trong thời gian
qua và đặc biệt là mấy năm gần đây, nông nghiệp và nông thôn ngoại thành
đã phát triển theo hướng nông nghiệp đô thị, sinh thái.
Nhìn chung trong những năm qua kinh tế của thủ đô Hà Nội đã đạt
được nhiều kết quả khả quan, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng theo định
hướng. Cơ cấu kinh tế của thành phố cuối năm 2004 là: công nghiệp mở rộng
40,4%, dịch vụ 7,5%, nông – lâm – thủy sản 2,1%. Các thành phần kinh tế
đều tăng, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được tăng
lên, thu hút được ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài vào thành phố, tập
trung vào các ngành công nghiệp, các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, góp
phần tạo diện mạo mới cho thủ đô.
Về chính trị, trong những năm quan, thủ đô Hà Nội cũng có được
những thành tựu quan trọng. Tình hình chính trị ổn định, bền vững, làm cho
người dân càng tin tưởng vào Đảng và Nhà nước, yên tâm làm ăn sản xuất.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status