(Luận văn thạc sĩ) phân tích các yếu tố tác động đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân thành phố hồ chí minh - Pdf 71

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN TỊNH MINH TRÍ

PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN QUYẾT ĐỊNH KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ
CỦA NGƯỜI DÂN TP HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Tp Hồ Chí Minh – Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN TỊNH MINH TRÍ

PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN QUYẾT ĐỊNH KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ
CỦA NGƯỜI DÂN TP HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Kinh Tế Phát Triển
Mã Số: 60310105

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HAY SINH


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ..........................................................................4

1.3.1

Mục tiêu tổng quát: .................................................................................4

1.3.2

Mục tiêu cụ thể: ......................................................................................4

1.3.3 Câu hỏi nghiên cứu: ...................................................................................4
1.4

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................................4

1.5

BỐ CỤC ĐỀ TÀI ..........................................................................................5

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ........7
2.1 ĐỊNH NGHĨA VỀ KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ ..................................7
2.2 LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ HỌC SỨC KHỎE ( Peter Zweifel( 2009) ) ........8
2.2.1 Nguyên lý xác định giá trị kinh tế của sức khỏe..........................................8
2.2.2 Công bằng và sức khỏe. ............................................................................14
2.2.3 Cung và cầu sức khỏe cá nhân. ................................................................18
2.3 LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG. ............................................21
2.4 CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN. ...............................................................22
2.4.1 Mô hình nghiên cứu. ..................................................................................22
2.4.2 Cơng bằng trong tiếp cận dịch vụ. ............................................................24
2.4.3 Hành vi người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ...................................25


KTSKĐK: Kiểm tra sức khỏe định kỳ.
BYT:

Bộ y tế.

CEA:

Phân tích chi phí hiệu quả.

ACER:

Chỉ số hiệu quả trung bình.

QUALY: Chất lượng sống.
GSO:

Tổng cục thống kê.

GDP:

Tổng sản phẩm quốc nội.

BV:

Bệnh viên.

FFS:

Dịch vụ chăm sóc sức khỏe có trả phí.

Bảng dữ liệu khảo sát.


1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
ĐẶT VẤN ĐỀ.

1.1

Vấn đề sức khỏe trở nên rất quan trọng , vì nó được xem như là một trong
những yếu tố chính trong việc hạn chế đói nghèo, phát triển bền vững của nền kinh
tế ( World Bank (1993); Smith (1999) ).
Không lâu trước đây, sức khỏe tốt được xem như là món quà của tự nhiên và
sức khỏe tồi được coi như những điều không may mắn. Tuy vậy, những thành quả y
tế hiện đại đã tạo ra niềm tin về việc con người có thể đạt tới một sức khỏe tốt khi
sử dụng chúng đúng cách. ( Peter Zweifel (2009) ).
Y tế dự phòng là một phương pháp giúp tiết kiệm chi phí cho cá nhân và toàn
xã hội hơn là phương pháp cứu chữa hiện nay. Phịng bệnh có nghĩa là phải kiểm tra
sức khỏe định kỳ, trước khi các mầm bệnh phát triển. ( Ariely, (2008) ).
Vì vậy để có được một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, chúng ta phải luôn chắc
chắn sức khỏe của chúng ta được kiểm soát chặt chẽ. Để thực hiện được điều này,
chúng ta phải thường xuyên kiểm tra sức khỏe định kỳ tại các cơ sở chăm sóc sức
khỏe.
Qua việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, chúng ta có thể phịng ngừa được bệnh
tim mạch, tăng mỡ máu ở người lớn tuổi , đây là nguyên nhân quan trọng gây tăng
huyết áp, dẫn đến biến chứng tai biến mạch máu não, một vài căn bệnh ung thư có
thể được chữa khỏi nếu phát hiện sớm,…Tuy nhiên , ở Việt Nam chúng ta hiện nay
đa số người dân chỉ đến cơ sở y tế khi cơ thể đã phát bệnh, khi cảm thấy khó chịu
với các triệu chứng và đang suy yếu. Chính thói quen này làm cho cơ hội chữa khỏi
bệnh không cao, không hiệu quả về chi phí đầu tư cho sức khỏe.

tăng lên 1.603.484 sinh viên. Năm 2008 tổng số sinh viên ra trường là 233.966
trong đó sinh viên tốt nghiệp đại học là 152.272; sinh viên tốt nghiệp cao đẳng là
81.694. Số trí thức có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh( nguồn: Nguồn nhân
lực Việt nam – Bộ Giáo duc. 22/6/ 2010 ).
Thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Việt nam dựa trên số liệu của
Tổng cục Thống kê (GSO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam năm 2014
tính theo giá hiện hành đạt 3.937.856 tỷ đồng, tương đương 184 tỷ USD, tính theo


3
tỷ giá của Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước vào ngày 31/12/2014 là 21.400
đồng/USD.Dựa trên quy mô dân số 90,73 triệu người của năm 2014 (cũng theo số
liệu do GSO cơng bố), GDP bình qn đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.028
USD, tương đương 169 USD/tháng.Trước đó, năm 2013, tổng sản phẩm quốc nội
của Việt Nam đạt 3.584.262 tỷ đồng tính theo giá hiện hành, theo đó GDP bình
quân đầu người đạt 1.900 USD, tăng so với mức 1.749 USD của năm 2012.Với mức
thu nhập 169 USD/ tháng tương đương với 3,380,000VND/ tháng đây là mức thu
nhập trung bình thấp so với các nước trong khu vực. ( Nguồn: Tổng cục thống kê –
2014 )
Trong 10 năm qua, số người trong độ tuổi 15-64 đã tăng lên 12,6 triệu người,
từ 46,7 triệu người năm 1999 lên 59,3 triệu người năm 2009. Tỷ trọng dân số từ 65
tuổi trở lên tuy cũng tăng lên nhưng không đáng kể. Sau 30 năm, tỷ trọng này chỉ
tăng được 1,6 điểm phần trăm (từ 4,8% năm 1979 lên 6,4% năm 2009). ( nguồn:
Tổng cục dân số kế hoạch hóa gia đình 2014 ).
Tình hình cung cấp dịch vụ y tế cho người dân ở Việt nam hiện nay: Bệnh
viện Ung bứơu TP Hồ Chí Minh là tuyến cuối của người bệnh mắc bệnh ung thư
khu vực phía nam. Số giường thực kê của BV chỉ có 631 giường. Trung bình mỗi
ngày BV điều trị nội trú gần hai nghìn người bệnh, bệnh nhân ngoại trú gần 10
nghìn người. Trong khi cơ sở vật chất BV đang xuống cấp, chật hẹp, trang thiết bị
thiếu... Hằng ngày, số lượng người bệnh đến khám, điều trị ln trong tình trạng

dân trong khoản thời gian từ năm 2010 đến 2015.
1.3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1.3.1 Mục tiêu tổng quát:
Phân tích các yếu tố tác động đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của
người dân.
1.3.2 Mục tiêu cụ thể:
- Phân tích xu hướng tác động của các yếu tố đến quyết định kiểm tra sức khỏe
định kỳ.
- Giải thích nguyên nhân tại sao người dân thực hiện hay không thực hiện việc
kiểm tra sức khỏe định kỳ.
1.3.3 Câu hỏi nghiên cứu:
- Các yếu tố nào tác động đến việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân?
- Chúng tác động theo xu hướng như thế nào?
1.4

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


5
Nghiên cứu được thực hiện đồng thời hai phương pháp, phương pháp định tính
và phương pháp định lượng.
Nghiên cứu dùng phương pháp định tính. Thảo luận cùng các chuyên gia, bác
sỹ, các người dân có khả năng quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, để xác
định được các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của
người dân, đưa ra được bảng câu hỏi dùng cho khảo sát nghiên cứu định lượng.
- Nghiên cứu định tính để xác định rõ hơn các yếu tố nào tác động đến quyết
định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân và tại sao người dân lại thực hiện hay

nghiên cứu từ bốn mươi tuổi trở lên. Mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài, để trả lời
những câu hỏi nghiên cứu nào. Giới thiệu về phương pháp mà người nghiên cứu sử
dụng để làm sáng tỏ vấn đề và phạm vi mà nghiên cứu này khảo sát để nghiên cứu.
- Chương 2: Giới thiệu về cơ sở lý thuyết mà người nghiên cứu vận dụng trong
lý luận của đề tài, các nghiên cứu thực nghiệm đã được thực hiện bởi những người
đi trước, người nghiên cứu đã vận dụng cho nghiên cứu của mình.
- Chương 3: Giới thiệu về phương pháp nghiên cứu mà người nghiên cứu sử
dụng, đó là nghiên cứu định tính và định lượng trong nghiên cứu của mình. Phương
pháp phỏng vấn tay đôi, phương pháp thu nhập dữ liệu, giới thiệu về mơ hình
Logistic.
- Chương 4: Giới thiệu về kết quả nghiên cứu được từ phương pháp nghiên
cứu định tính, đưa ra khung phân tích sử dụng cho việc nghiên cứu định lượng, định
hình các biến tác động, kết quả nghiên cứu từ nghiên cứu định lượng.
- Chương 5: Kết luận và kiến nghị chính sách của người nghiên cứu, dựa trên
kết quả nghiên cứu đạt được.
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục.


7
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
2.1 ĐỊNH NGHĨA VỀ KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ
Kiểm tra sức khỏe định kỳ tức là người dân ít nhất một lần trong năm đến
trung tâm chăm sóc sức khỏe, để được các bác sỹ thực hiện việc kiểm tra sức khỏe
cho mình. Các việc cụ thể được thực hiện như sau ( Theo quy định của thông tư số
13/2007/ TT – BYT ngày 21 tháng 11 năm 2007 của Bộ Y Tế. ):
- Tiếp nhận hồ sơ và hồn thành các thủ tục hành chính: Đối tượng khám sức
khỏe có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực các thơng tin cá nhân,
tình trạng sức khỏe hiện tại, tiền sử bệnh tật của bản thân và gia đình trong phần
tiền sử của đối tượng khám sức khỏe.

người dân ăn sáng hay khơng? Chúng ta có nên tiến hành chương trình giám sát thị
lực ở trường học khơng?...Để có cơ sở trả lời cho các câu hỏi trên, lý thuyết về kinh
tế học sức khỏe sẽ cung cấp cho ta các cơng cụ trả lời dưới góc độ kinh tế, cơng
bằng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
2.2.1 Nguyên lý xác định giá trị kinh tế của sức khỏe.
2.2.1.1 Tầm quan trọng của việc xác định giá trị kinh tế trong lĩnh vực sức khỏe.
“ Sự sống là vô giá” là một luận điểm phổ biến mà nhiều người sẽ đồng ý.
Nhưng những quyết định trong vấn đề cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe khơng
chỉ là của những cá nhân mà cịn đến từ phía các nhà hoạch định chính sách. Ta có
hai vấn đề cần giải quyết: Bảo vệ hay kéo dài mạng sống của một con người – Tiêu
tốn những nguồn lực có hạn của xã hội. Ta có một quyết định mang tính đánh đổivà
đó là một quyết định quan trọng. Cho một quyết định như vậy, ta cần những phân
tích mang tính hệ thống, cân nhắc kỹ lưỡng những yếu tố liên quan. Những phân
tích kinh tế theo hướng định giá, ở một mức độ nào đó, thỏa mãn những địi hỏi trên
vì ít nhất có ba lý do sau đây:
- Tất cả những phương án khả thi đều phải được đề cập, thế nên phân tích
đánh giá cần có tính hệ thống. Đôi khi trong lúc cân nhắc quyết định về việc đưa ra
một phương án chăm sóc sức khỏe mới, người ta khơng nhắc đến các phương án có
sẵn như một chọn lựa. Hoặc trong trường hợp các phương án phịng ngừa cũng có
thể được coi như phương án tốt bên cạnh các phương án điều trị, và nên được thêm
vào danh sách lựa chọn. Nên để ý rằng khi một phương án mới được đem ra so
sánh với một phương án có sẵn thì bản thân phương án có sẵn nên đạt hiệu quả về
mặt chi phí. Một phương án sẽ khơng hiệu quả nếu có một phương án khác cho kết
quả tương tự nhưng với chi phí thấp hơn.


9
- Những phân tích xác định giá trị kinh tế thường dựa trên quan điểm của một
nhóm người nào đó, điều này rất quan trọng. Một phương án có thể khơng hấp dẫn
cho một bên nào đó, nhưng lại hiệu quả trong quan điểm của những bên khác.

dưới dạng một chuỗi những tỉ số hiệu quả chi phí cho những nhóm bệnh nhân khác
nhau hoặc các phương án khác nhau.
Những phân tích dạng này đo lường sức khỏe theo thước đo “ tự nhiên” ,
thước đo này có thể là một thước đo y học, hoặc tuổi thọ. Thước đo này chỉ có ý
nghĩa trong trường hợp những phương án khác biệt trong một tác động nào đó và
khơng có tác dụng phụ.
Đối với những phương án độc lập với nhau, chỉ số dùng để so sánh là chỉ số
hiệu quả trung bình ( ACER ). Nếu hiệu quả được đo bằng số năm tuổi thọ, chỉ số
so sánh này có dạng:
ACER = Chi phí bằng tiền/ Kết quả tính bằng số năm tăng lên trong tuổi thọ.
Nếu những phương án có tính loại trừ, ta cần xem xét tỷ lệ mức tăng lên trong
chi phí đối với mức tăng lên trong lợi ích. Trong trường hợp này chúng ta dùng “ tỷ
số tăng hiệu quả chi phí “ ( ICER ). “ Tỷ số tăng hiệu quả chi phí” của một phương
án được định nghĩa bằng tỷ số của mức tăng trong chi phí và mức tăng trong hiệu
quả khi so sánh với phương án hiệu quả tiếp theo.
ICER = Chi phí tăng lên/ Kết quả tăng lên.
- Phân tích chi phí thỏa dụng
Đo lường mức thỏa dụng: Một vài khái niệm về mức thỏa dụng đã được phát
triển để gộp những tác động đa chiều của một phương án lại thành một tác động một
chiều. Trong số chúng, những thước đo sau đây là phổ biến nhất.
Tuổi thọ giảm đi điều chỉnh theo mức độ khuyết tật ( DALY ): Khái niệm này
được phát triển từ năm 1993 trong báo cáo phát triển Thế giới của World Bank.
DALY đo lường mức giảm xuống của tuổi thọ có tính đến mức giảm của sức khỏe
so với một mức chuẩn về tuổi thọ kỳ vọng là 80 năm cho nam giới và 82,5 năm cho
nữ giới. Trọng số bệnh tật được xác định bởi những chuyên gia và được dùng để
đánh giá những tình trạng sức khỏe thấp hơn mức hồn tồn khỏe mạnh. Bên cạnh
đó, trọng số này áp dụng cho những tuổi đời khác nhau. Trọng số lớn nhất được gắn
cho việc mất đi một năm tuổi thọ ở mức sức khỏe của độ tuổi 25. Mức thỏa dụng từ





12
sẽ được ưa dùng hơn, nhưng trong mọi tình huống nó được coi là tốn kém hơn, vì
tồn bộ hồ sơ diễn tiến sức khỏe cần một sự mô tả rất dài.
Khái niệm QALY rất đơn giản để áp dụng. Một khi trọng số thỏa dụng được
xác định, việc đánh giá một phương án là rất dễ dàng. Tuy nhiên, vì QALY được
dùng để hổ trợ việc ra quyết định phân phối nguồn lực trong lĩnh vực chăm sóc sức
khỏe, các quyết định này cần có cơ sở lý thuyết đúng đắn. Chúng ta sẽ phân tích
QALY trong lý thuyết “ mức thỏa dụng kỳ vọng”, lý thuyết phổ biến nhất cho việc
ra quyết định trong điều kiện không chắc chắn. Dù thỏa dụng kỳ vọng không phải là
một lý thuyết hồn hảo về hành vi với điều kiện khơng chắc chắn, nó có thể đóng
vai trị một hướng dẫn chuẩn cho việc ra quyết định một cách lý trí, nếu người ta
đồng ý rằng lựa chọn được đưa ra thỏa mãn những tiền đề cơ sở của lý thuyết này.
Chúng ta bắt đầu với một dạng đơn giản của các mơ hình QALY, trong đó
khơng có việc chiết khấu và khơng có tính “ e ngại rủi ro” theo tuổi thọ ( hay còn
gọi là bàng quan với rủi ro theo tuổi thọ ). Để đơn giản, coi tất cả các tình trạng sức
khỏe ( vector Hh với h = 1,2,….m ) là thường xuyên ( tình trạng sức khỏe là không
đổi – giả định này chỉ được dùng để tiện cho việc biến đổi và không phải là một tính
chất của một mơ hình QALY ). Sự kết hợp ( Hh , Tt ) xảy ra với xác suất πh . Lúc đó
một cá nhân phải đối diện với một sự may rủi về những tình trạng sức khỏe thường
xuyên ( πh , Hh , Th ) với h = 1,…,m. Giả định rằng sự ưa thích thỏa mãn các tiền đề
Neumann – Morgenstern. Nếu mức thỏa dụng của việc sống Th nằm trong tình trạng
thường xuyên Hh ký hiệu là u ( Hh, Th ), sự ưa thích của cá nhân được thể hiện bằng
mức thỏa dụng kỳ vọng:
EU = Σmh=1πhu( Hh , Th )

(1)

Để chuyển mức thỏa dụng kỳ vọng thành số QALY, hàm thỏa dụng phải có

trình trên. Nói chung , nó chỉ ngụ ý rằng khi vắng đi sự chiết khấu, hàm thỏa dụng
có dạng sau
u ( H, T ) = g(H) + v(H)T với v(H) > 0

(4)

và phương trình như đã nói trên cần thêm điều kiện g(H) = 0 cho mọi tình
trạng sức khỏe H.
Một giải pháp đặt ra là “ điều kiện không” , tất cả trạng thái sức khỏe với độ
dài thời gian bằng không là bằng nhau ( theo nghiên cứu của Bleichrodt và cộng sự
( 1997 ), Miyamoto và Eaker ( 1988) )
Với mọi H , u ( H, 0 ) = const

(5)

Nghiên cứu của Miyamoto và cộng sự (1998 ) lập luận rằng “ điều kiện
khơng” này hồn tồn được chứng minh. Hệ quả từ “điều kiên không” là g(H) phải


14
là hằng số trong phương trình thỏa dụng (4). Vì hàm thỏa dụng phải là hàm số
lượng, một hằng số bất kỳ có thể được thêm vào mà khơng làm mất đi tính tổng
qt. Vì thế người ta có thể cho g(H) = 0 trong phương trình thỏa dụng (4) để trở
thành phương trình (2). Sự bàng quan với rủi ro về tuổi thọ và “điều kiện không”
lúc này đủ để tạo nên cơ sở để cho việc đo mức thỏa dụng bằng QALY.
Bên cạnh sự bàng quan với rủi ro về độ dài tuổi thọ, sự độc lập về thỏa dụng
và sự đánh đổi theo tỉ lệ cố định cũng được cho là những giả định nền tảng cho mơ
hình QALY ( Pliskin và cộng sự ( 1980) ). Giả định về sự độc lập về thỏa dụng sẽ
được thỏa mãn nếu sự ưa thích có điều kiện đối với những may rủi trong suốt một
giai đoạn tuổi thọ với một trạng thái sức khỏe cho trước, độc lập với những tính

nhu cầu” . Chủ nghĩa tự do cá nhân ( Libertarianism ) tôn trọng những quyền tự
nhiên: Quyền sống và quyền sở hữu. Nếu người ta có được và chuyển nhượng
những tài sản của mình mà khơng làm ảnh hưởng đến người khác thì sự sở hữu đó
là cơng bằng.
Hai hướng tiếp cận chính về vấn đề cơng bằng được đề cập trong phần lớn các
nghiên cứu kinh tế sức khỏe là hướng tiếp cận theo chủ nghĩa tự do cá nhân và
hướng tiếp cận theo chủ nghĩa Mác. Nhưng nói một cách chính xác, đề xuất “ phân
phối theo nhu cầu” khơng hẳn đến từ chủ nghĩa Mác, mà là một phần trong chủ
nghĩa bình quân trong thế kỷ 20. Theo chủ nghĩa bình qn, việc được chăm sóc sức
khỏe là quyền của mỗi cơng dân và vì thế, bất chấp sự giàu nghèo hay thu nhập cao
thấp, mọi người đều phải có quyền này. Theo chủ nghĩa tự do cá nhân, sự chăm sóc
sức khỏe được đề cập đến như một hệ thống khen thưởng xã hội, thứ mà những cá
nhân nổi trội hơn về thu nhập hay sự giàu có sẽ được tiếp cận dễ dàng hơn. Một
cách khái quát, chủ nghĩa bình quân kêu gọi sự tài trợ cho việc chăm sóc sức khỏe
theo khả năng chi trả và phân phối theo nhu cầu. Ngược lại, chủ nghĩa tự do cá nhân
lại cho rằng phân phối việc chăm sóc sức khỏe phải dựa trên khả năng chi trả của
mỗi người, vì thế nguồn tài trợ phải là từ phía tư nhân, chính phủ chỉ nên có vai trị
tối thiểu.
Có một khái niệm chúng ta cần phải thảo luận trong lý thuyết cơng bằng sức
khỏe đó là khái niệm “ Tiếp cận”. Khái niệm này được nhắc đến nhiều trong việc
phân phối sự chăm sóc sức khỏe. Về cơ bản, “ tiếp cận” thường được hiểu dưới
dạng “ nhận được sự chăm sóc” . Điều này khá rõ trong các lập luận của Tobin (
1970 ) vốn khẳng định rằng cơng bằng trong chăm sóc sức khỏe là việc các cá nhân


16
được chăm sóc dựa trên dấu hiệu và triệu chứng y khoa chứ không phải khả năng
chi trả của họ.
Không đồng ý với quan điểm trên, Legrand ( 1982 ) và Mooney ( 1983, 1994
) cho rằng có sự khác biệt rạch ròi giữa “ tiếp cận” và “ được chăm sóc”. “ tiếp cận”

như thế nào. Hai người có cùng mức “ tiếp cận” và có cùng “ nhu cầu” nhưng chưa
hẳn là nhận được sự chăm sóc tương đương. Người có học thức thấp thường đánh
giá thấp lợi ích của sức khỏe và khơng liên hệ với thầy thuốc trong khi những người
có học thức cao hơn thường làm điều ngược lại. Trái lại, hai người có mức tiếp cận
khác nhau đôi khi vẫn được sự chăm sóc như nhau. Culyer và Wagstaff ( 1993 )
phát biểu rằng: cơng bằng trong “ tiếp cận” sự chăm sóc sức khỏe không nhất thiết
phải dẫn tới việc phân phối theo nhu cầu và sự công bằng trong mức sức khỏe.
2.2.2.1 Ngun tắc cơng bằng trong chăm sóc sức khỏe.
Nghiên cứu của Mooney cùng cộng sự ( 1991, 1992 ), và Mooney ( 1994 ) ủng
hộ mạnh mẽ nguyên tắc công bằng trong tiếp cận. những nghiên cứu này biện luận
rằng, các lý lẽ như phân phối theo nhu cầu hay tạo nên sự bình đẳng trong mức sức
khỏe đi ngược lại những nguyên tắc về sự ưa thích của người tiêu dùng, và vì thế xa
rời những luận điểm kinh tế phúc lợi Pareto.
Những lý thuyết Pareto phù hợp nhất cho những người theo chủ nghĩa tự do cá
nhân. Chủ nghĩa này cho rằng hệ thống chăm sóc sức khỏe nên được xem như một
hệ thống khen thưởng xã hội mà trong đó những cá nhân với mức thu nhập hay của
cải cao hơn có quyền có được mức sức khỏe tốt hơn. Những người theo xu hướng
này tuy chấp nhận sự có mặt của thuế khóa nhưng khơng có vẻ là họ chấp nhận sự
cơng bằng trong “ tiếp cận”.
Legrand và Mooney có nhắc tới hai chi phí: tiền bạc và thời gian. Việc đưa
vào chi phí thời giam ám chỉ rằng nên có những sự ưu ái hơn về cơ sở vật chất cho
người ở khu vực nghèo nhằm làm công bằng hơn thời gian chờ đợi và khả năng tiếp
cận. Quan điểm của Olson – Rodger thậm chí cịn cổ súy cho một mức thuế cao hơn
nhằm làm giảm sự mất cơng bằng.
Từ những phân tích trên cho thấy, trong khi chúng ta đồng ý rằng việc được
chăm sóc sức khỏe là quan trọng, có những người vẫn ln đủ khả năng để đạt được
điều đó nhưng lại khơng làm như vậy. Thế nên, mục đích chủ yếu không phải là


18

dành cho những nổ lực phịng bệnh. Gộp lại ta có:
H1 = H0 (1- δ) + I( M0 , tI )



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status