TÍN DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TẠI CÁC NHTM - Pdf 67

TÍN DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TẠI CÁC NHTM.
1. Ngân Hàng Thương Mại
Khái niệm
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức tín dụng thể hiện cơ bản nhất của ngân
hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các
cá nhân và tổ chức hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Không những
thế NHTM còn là tổ chức kinh tế, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng,
nó cung cấp một số dịch vụ cho khách hàng và ngược lại nó nhận tiền gửi của khách
hàng với các hình thức khác nhau. Nghiệp vụ kinh doanh của NHTM rất phong phú và
đa dạng cùng với sự phát triển của khách hàng, khoa học kỹ thuật kinh tế và xã hội,
hoạt động của NHTM cũng có nhiều phương pháp mới nhưng các nghiệp vụ kinh
doanh cơ bản không thay đổi là nhận tiền gửi và hoạt động cho vay, đầu tư. Qua
NHTM các chính sách tài chính tiền tệ của quốc gia sẽ được thực hiện một cách nhanh
chóng và cũng nhờ nó mà việc kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp theo đúng
luật pháp được dễ
dàng hơn. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của ngân hàng luôn gắn liền với sự
phát triển của nền kinh tế và đời sống xã hội. Trong cơ chế thị trường, các NHTM và
các tổ chức tín dụng cũng là các doanh nghiệp nhưng chúng là những doanh nghiệp
đặc biệt vì tài sản trong quá trình kinh doanh của các NHTM đều phụ thuộc vào các
khách hàng. Mặt khác, hàng hóa mà các ngân hàng kinh doanh là một loại hàng hóa
đặc biệt, nó rất nhạy cảm với sự biến đổi của thị trường và tình hình kinh tế xã hội.
Các chức năng của ngân hàng thương mại
a. Ngân hàng thương mại là trung gian tín dụng
Đây là chức năng cơ bản và đặc trưng nhất của ngân hàng thương mại và có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển. Thực hiện
chức năng này, một mặt ngân hàng thương mại huy động và tập trung vốn tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi trong nền kinh tế như vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, cơ
quan đoàn thể, tiền tiết kiệm của dân cư để hình thành nguồn vốn cho vay, mặt khác
trên cơ sở nguồn vốn đã huy động ngân hàng đã sử dụng cho vay để đáp ứng nhu cầu
vốn của nền kinh tế. Khi thực hiện chức năng làm trung gian tín dụng, ngân hàng

kiệm cho xã hội rất nhiều về lưu thông.
- Với chức năng trung gian thanh toán cũng cho phép ngân hàng thương mại tạo ra bút
tệ để mở rộng quy mô tín dụng đối với nền kinh tế, vừa tiết kiệm được lượng tiền mặt
vừa đáp ứng được những biến động thường xuyên của hoạt động kinh tế.
- Trong một nền kinh tế phát triển, quy mô thanh toán, số lượng các khoản thanh toán
và khoáng cách giữa khách hàng với nhau ngày càng tăng lên nhanh chóng. Việc
thanh toán trực tiếp giữa các khách hàng sẽ không thể nào thõa mãn được yêu cầu của
nền kinh tế nếu không có hệ thống ngân hàng thương mại làm chức năng trung gian
thanh toán cho các chủ thể của nền kinh tế.
- Việc hệ thống ngân hàng thương mại làm chức năng trung gian
thanh toán mang một ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung.
+ Trước hết hệ thống ngân hàng thương mại sẽ cung cấp cho các chủ thể của nền kinh
tế nhiều công cụ thanh toán mang tiện ích cao như: thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, thẻ rút
tiền, ngân phiếu, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu…
Tùy theo yêu cầu, khách hàng có quyền lựa chọn một trong các công cụ thanh
toán thích hợp. Nhờ các phương thức thanh toán được thực hiện bởi ngân hàng thương
mại, các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền đến gặp chủ nợ,
gặp người được thụ hưởng dù xa mà họ có thể sử dụng một phương thức thanh toán
nào đó đơn giản, chẳng hạn như một tờ séc, một ủy nhiệm chi… để giao cho khách
hàng hoặc yêu cầu ngân hàng chi trả hộ, thu hộ các khoản tiền theo ý muốn của mình.
+ Thứ hai khi sử dụng các phương thức thanh toán bản thân các chủ thể kinh tế sẽ tiết
kiệm được rất nhiều các chi phí lao động, thời gian, lại an toàn. Hệ thống ngân hàng
thương mại lại tích tụ được nguồn vốn khổng lồ để có thể mở rộng khả năng tín dụng
của mình. Ngày nay, có thể nói rằng hoạt động thanh toán của ngân hàng thương mại
chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Nó tạo điều
kiện cho nhiều dịch vụ ngân hàng khác phát triển dễ dàng hơn, đồng thời nó tiết kiệm
một khối lượng tiền mặt trong lưu thông.
- Nhìn vào hệ thống của ngân hàng thương mại, người ta có thể đánh giá ngay được
hoạt động của hệ thống ngân hàng có hiệu quả hay không… Chu chuyển tiền tệ hiện
nay có thể thông qua hệ thống ngân hàng thương mại và do vậy chỉ khi chức năng

luồng tiền hủy đi ( trả nợ ngân hàng).
Các hoạt động cơ bản của NHTM.
Nói chung các ngân hàng thu lợi nhuận bằng cách bán những nguồn vốn có một
số đặc tính ( một sự kết hợp cụ thể giữa tính rủi ro và lợi tức ) và dùng tiền để mua
được những tài sản một số đặc tính khác. Như thế các ngân hàng cung cấp dịch vụ
chuyển một số loại tài
sản thành một loại tài sản khác cho công chúng. Qúa trình chuyển các tài sản và cung
cấp một loại dịch vụ ( thanh toán séc, ghi chép sổ sách phân tích tín dụng...). Giống
bất cứ quá trình sản xuất khác trong một hãng kinh doanh. Nếu một ngân hàng tạo ra
những dịch vụ hữu
ích với chi phí thấp và có được doanh thu cao nhờ vào tài sản của mình thì ngân hàng
đó thu được lợi nhuận nếu không thì ngân hàng này chịu nhiều tổn thất. Tóm lại, các
NHTM tạo ra lợi nhuận qua quá trình chuyển đổi tài sản: Họ vay ngắn hạn( huy động
các khoản tiền gửi) và cho vay( thực hiện các khoản cho vay).
Trong kinh doanh các NHTM không chỉ có mục tiêu lợi nhuận là duy nhất, sự rủi
ro luôn xuất hiện bất ngờ đe dọa sự đổ vỡ trong kinh doanh từ đó tạo ra tổn thất tài sản
cho ngân hàng. Để hạn chế được rủi ro các NHTM nắm giữ các tài sản, khả năng
chuyển đổi ra tiền mặt với cho phí thấp cho dù các tài sản này có mức lợi tức thấp,
Đặc biệt, các ngân hàng còn duy trì dự trữ quá mức hay dự trữ thứ cấp bởi vì chúng
tạo ra sự bảo hiểm đề phòng thiệt hại do dòng tiền gửi rút ra khỏi ngân hàng. Các ngân
hàng quản lý tài sản của họ để làm cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức
cao nhất có thể có ở các món tiền cho vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm
thiểu rủi ro và tạo ra những dự trữ thanh khoản. Quản lý vốn là một công việc quan
trọng, các ngân hàng lớn ngày nay ráo riết tìm kiếm những nguồn vốn bằng phát hành
những công cụ nợ - VD như giấy chứng nhận tiền gửi chuyển nhượng được hoặc bằng
các nỗ lực vay từ các ngân hàng và các công ty khác.
Với sự tăng thêm tính chất bất định của lãi suất xuất hiện trong những năm 1980
các ngân hàng ngày càng quan tâm hơn đến việc họ phải đối mặt với rủi ro lãi suất là
rủi ro về thu nhập và lợi tức, tính
chất rủi ro này gắn liền với những thay đổi trong lãi suất. Sự chênh lệch giữa nguồn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status