TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ - Pdf 64

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT
TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ vai trò của nó trong nền kinh tế thị
trường.
1.1.1 Những ý kiến khác nhau về định nghĩa doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Hiện nay, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ
phát triển nhất là các chính sách về tài chính, tín dụng đang được thực hiện
rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam vấn đề này đã và đang được
đặt ra, thể hiện ở việc xây dựng và thực hiên các chính sách, chương trình
nhằm khuyến khích và hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát
triển.
Song việc xây dựng các chính sách đối với sự phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ còn gặp không ít khó khăn. Vì cho đến nay, chúng ta chưa có
một định nghĩa tương đối đầy đủ về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhìn một cách tổng quát việc định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ có
thể có hai cách tiếp cận chủ yếu sau đây: định nghĩa theo chức năng và định
nghĩa theo tính ứng dụng.
Khi định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ theo chức năng, người ta dựa
vào những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp vừa và nhỏ như trình độ
chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương pháp tổ chức
quản lý, quan hệ giữa chủ và thợ, giữa người quản lý và người làm công trong
hoạt động kinh doanh.v.v... cách tiếp cận này còn có nhiều hạn chế vì nó mới chỉ
nêu được mặt định tính, còn mặt định lượng rất cần thiết nó chưa thể hiện
được. Nếu dựa vào định nghĩa này thì chúng ta không có cơ sở để phân loại
Ở Pháp người ta còn đưa ra tiêu chuẩn để xếp loại những doanh nghiệp
siêu nhỏ. Doanh nghiệp siêu nhỏ chủ yếu là những doanh nghiệp cá nhân
(doanh nghiệp gia đình). Tài sản của doanh nghiệp là tài sản của cá nhân - chủ
gia đình. Ở Pháp, tiêu chí phân loại doanh nghiệp siêu nhỏ là những doanh
nghiệp có số công nhân dưới 20 người.
Hiện nay ở nước ta chưa có một định nghĩa chính xác về doanh nghiệp

năm 1960.(2 tr208)
Theo số liệu thống kê của Uỷ ban tổng hợp Nhật Bản năm 1995 ở Nhật
có 6.500 doanh nghiệp, trong số đó doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng
99,1% và số nhân viên làm việc trong các doanh nghiệp này là 43,3 triệu người
chiếm 79% số người làm việc trong các doanh nghiệp.(3)
Ở Mỹ doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 90% trong tổng số các doanh
nghiệp thuộc các ngành tin học, điện tử, chất dẻo. Đây là những doanh nghiệp
vệ tinh làm gia công lắp ráp cho các doanh nghiệp quy mô lớn, kỹ thuật hiện
đại.
Việc phát triển nhanh chóng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước tư
bản chủ nghĩa nói trên, trong những thập kỷ gần đây, là do nhiều nguyên nhân:
Một là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính nhạy cảm cao đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh, linh hoạt và ứng phó kịp thời tình hình biến
động của thị trường.
Hai là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng chấp nhận mọi sự
rủi ro, mạo hiểm có thể xảy ra, nên chủ doanh nghiệp có thể mạnh dạn đầu tư
vào những ngành mới, những ngành mà lúc đầu đem lại lợi nhuận ít và những
ngành sản xuất ra những sản phẩm chỉ đáp ứng những nhu cầu cá biệt.
Ba là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng thực hiện sự đổi mới
thiết bị và công nghệ hơn so với các doanh nghiệp lớn, vì yêu cầu vốn bổ xung
không nhiều; và giảm được sự thiệt hại trong việc thay đổi tư bản cố định khi
có sự cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác.
Ngày nay do sự phát triển hết sức nhanh chóng của khoa học và công
nghệ nên nhiều khi thời gian tồn tại của một mặt hàng ngắn hơn thời gian tồn
tại của thế hệ máy móc sản xuất ra nó. Vì vậy đòi hỏi phải khấu hao nhanh để
chuyển sang sản xuất mặt hàng mới với thiết bị và công nghệ mới.
Bốn là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ứng dụng những kỹ
thuật tiên tiến, có thể kết hợp giữa tự động hoá, cơ khí hoá với lao động thủ
công, có thể sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao trong điều kiện cơ sở hạ
tầng kêm.

triển kinh tế của Nhật Bản, thì người ta thường nghĩ tới Toyota, Mitsubishi;
cũng như thế, khi nói đến Hàn Quốc, thì người ta nghĩ ngay đến hãng
Samsung.v.v.... Trong khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng có vị trí và
vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước, thì ít người quan tâm
nghiên cứu.
1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ cao về doanh nghiệp, về thu hút
lao động và đóng góp thu nhập quốc dân cho đất nước.
Theo số liệu thống kê của nhiều nước cho thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ
chiếm 95% tổng số các doanh nghiệp, thu hút từ 75 đến 90% số nhân viên làm
việc trong các doanh nghiệp và đóng góp từ 40 đến 50% thu nhập quốc dân ở
mỗi nước. Tạp chí “Những vấn đề kinh tế thế giới” số 1(9) tháng 1,2 năm 1995
cho biết: Ở Mỹ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ về số người lao động chiếm
78,5%, về thu nhập quốc dân chiếm 34% so với toàn bộ doanh nghiệp nước
Mỹ; Ở Cộng hoà liên bang Đức (không kể Đông Đức) con số đó là 75% và 45%;
Ở Nhật Bản con số đó là 92,8% và 56%; Ở Pháp số nhân việc làm việc trong các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 83,5% trong toàn bộ các doanh nghiệp nước
này.
Do có lợi thế là: chỉ cần một số vốn nhỏ cũng có thể thành lập được công
ty, nhà xưởng; có thể mở văn phòng, xưởng sản xuất tại gia đình với chi phí
quản lý thấp, tính năng động và tính linh hoạt cao, có khả năng thích ứng với
nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng v.v.... nên số doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong những năm qua phát triển khá nhanh. Đặc biệt là loại doanh
nghiệp mang tính chất gia đình, cá thể chiếm một tỷ lệ lớn.
Kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là nửa cơ giới,
lao động sống chiếm tỷ lệ khá cao. Mặt khác phần lớn các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến
nông, lâm, hải sản; xây dựng và giao thông vận tải v.v... nên nó có khả năng thu
hút nhiều lao động, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội và tăng thu nhập bảo
đảm đời sống cho người lao động. Trong khi đó các doanh nghiệp lớn kỹ thuật
sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là đối với các xí nghiệp tự động hoá

thường cũng là người của gia đình. Do đó chi phí lưu thông hàng hoá thấp.
Các doanh nghiệp lớn không thể tổ chức được một mạng lưới bán lẻ để
tiêu thụ hàng hoá của mình mà phải thông qua mạng lưới bán lẻ của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì vậy hệ thống cửa hàng kinh doanh thương
mại - dịch vụ vừa và nhỏ đặt khắp các đường phố khu công nghiệp, các tụ
điểm dân cư, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng và
thuận tiện.
Ở Nhật năm 1995, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 51% trong các ngành
sản xuất, 62% đối với ngành buôn bán, 80% đối với ngành bán lẻ.
Ở Việt Nam, chúng ta có thể đánh giá vai trò của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong lĩnh vực kinh doanh thương mại - dịch vụ qua tỷ trọng bán lẻ của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh so với
tổng mức bán lẻ của toàn xã hội qua các năm:
Năm 1980: 70,8%.
Năm 1989: 57,3%.
Năm 1994: 67,6%.
Năm 1998: 76%.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm
cho lực lượng sản xuất phát triển có tính nhảy vọt, vượt ra khỏi biên giới quốc
gia và đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới.
Cho nên bất kỳ nước nào, dù ở trình độ phát triển kinh tế cao hay thấp
cũng đều phải thực hiện chiến lược kinh tế mở, với nội dung cơ bản là: Tận
dụng lợi thế so sánh tích cực tham gia vào việc phân công lao động quốc tế,
chuyên môn hoá và hợp tác hoá quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh
nghiệm tốt của nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước. Đặc
trưng cơ bản của chiến lược kinh tế mở là mức bảo hộ thấp, khuyến khích xuất
khẩu (hướng ngoại).
Thực tiễn cho thấy rằng hàng chục năm qua, ở các nước đang phát
triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan trọng trong việc sản
xuất, chế biến các mặt hàng xuất khẩu. Nhất là những mặt hàng được sản xuất

nghiệp, hải sản và công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản v.v...
Trong những năm trước mắt, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về vốn
và kỹ thuật nên việc đầu tư khai thác các nguồn lực của đất nước, Đảng ta chủ
trương: “Chú trọng quy mô nhỏ và vừa, vốn đầu tư ít, thu hồi nhanh theo
phương châm “lấy ngắn nuôi dài” .(5 tr 15)
Doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém nên
tỷ lệ lao động sử dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường lớn rất thích
hợp với những ngành cần nhiều lao động thủ công như chế biến thuỷ sản đông
lạnh, may mặc, da giầy, công nghiệp chế biến.
Theo số liệu của Tổng cục thống kế ở thời điểm cuối năm 1998, số doanh
nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh phân theo ngành nghể như sau:(6)
Số doanh nghiệp Số vốn đăng ký (tỷ đ)
Tổng số 26.282 56.331
- Nông lâm nghiệp 1.004 2.810
- Thuỷ sản 2.189 610
- Công nghiệp chế biến 8.886 18.314
- Xây dựng 2.407 2.924
- Thương nghiệp 5.535 6.677
Như vậy ngành công nghiệp chế biến là ngành công nghiệp phát triển
nhất của Việt Nam nhằm khai thác các khả năng về tài nguyên, về sức lao động
của từng địa phương, về từng vùng kinh tế, ngành công nghiệp này chủ yếu
thích hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.4. Một số khó khăn và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Trong điểm 1.1.3, chúng tôi đã trình bày vị trí và vai trò của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế, khai thác tài nguyên lao
động, tạo ra nhiều việc làm. sản xuất ra nhiều hàng hoá, tăng thu nhập cho
Nhà nước và cho người lao động. Nhưng hiện nay, ở các nước cũng như ở
nước ta, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp một số khó khăn và hạn chế:
1. Khó khăn về vốn.

ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Do thiếu vốn, nên mức trang bị kỹ thuật của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ rất thấp so với các doanh nghiệp lớn: mức trang bị kỹ thuật được biểu
hiện bằng số vốn cố định bình quân cho một công nhân trong doanh nghiệp. Nó
được tính theo công thức:
i)(dång/ng­ê
nghiÖp doanhcña nhan c«ng sè Tæng
nghiÖp doanhcña dÞnh cè vèn sè Tæng
thuËt kübÞ trang Møc
=
Hàng năm, vốn doanh nghiệp vừa và nhỏ, nói chung có tăng lên. Nhưng
mức trang bị kỹ thuật của nó so với mức trang bị kỹ thuật của các doanh
nghiệp lớn lại giảm xuống một cách tương đối.
Chẳng hạn, ở Nhật Bản nếu năm 1963 mức trang bị kỹ thuật của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng 35% mức trang bị kỹ thuật của các doanh
nghiệp lớn, thì sau 30 năm tức là năm 1997 con số đó đã tụt xuống, chỉ còn 5%.
Nguyên nhân của tình hình trên là do mấy thập kỷ qua, dưới tác động
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thế giới, các doanh nghiệp
lớn phải thích ứng bằng cách ra sức tích cực và tập trung tư bản để nâng cao
cấu tạo kỹ thuật tư bản, nhằm tăng cao năng suất lao động để giành ưu thế
trên thị trường cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Trong nước năm tới, nếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ không giải quyết
được tình trạng lạc hậu về kỹ thuật và công nghệ thì sự lệ thuộc vào doanh


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status