1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trải qua nhiều năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng Nhân dân
cách mạng (NDCM) Lào khởi xướng và lãnh đạo đất nước; nhất là từ năm
1986 đến nay đã có những thành tựu nổi bật, như: Quốc phòng, an ninh
được giữ vững; kinh tếxã hội (KTXH) liên tục phát triển; đời sống nhân
dân đã được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị được củng cố; quan hệ đối
ngoại đã được mở rộng, vai trò, uy tín của nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân (CHDCND) Lào ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Đạt được những thành tựu trên đây có phần đóng góp quan trọng của
ngân sách nhà nước (NSNN) công cụ tài chính quan trọng của Nhà nước.
Chi NSNN ở CHDCND Lào trung bình hàng năm tăng ở mức độ đáng kể.
Tốc độ tăng chi NSNN ở CHDCND Lào cao như vậy đã tạo ra cơ hội để
đổi mới cơ cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển KTXH, tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, thực tiễn điều hành NSNN ở CHDCND Lào trong thời
gian qua còn có nhiều bất cập, như: Cơ cấu chi NSNN chưa góp phần phân
bổ nguồn lực tài chính công hiệu quả hơn giữa các loại hình chi; Giữa các
ngành, các lĩnh vực; chưa đảm bảo phân bổ công bằng và hướng về người
nghèo nhiều hơn. Mặt khác, do tác động của khủng hoảng tài chính toàn
cầu gây ảnh hưởng đến việc thực hiện cơ cấu chi NSNN, mà hậu quả là
phải cắt giảm một số khoản chi, dẫn đến không đạt mục tiêu phát triển
KTXH đã đề ra. Nhận thức được điều đó, trong quá trình phát triển đất
nước để thực hiện được các mục tiêu và giải quyết vấn đề đặt ra, Nhà
nước phải có chủ trương, chính sách, giải pháp tích cực để từng bước nâng
cao chất lượng điều hành chi NSNN, trong đó có giải pháp đổi mới cơ cấu
chi NSNN.
3
phương ở tỉnh Luangnamtha” đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 4/2010;
Khamtanh Phommaseng với bài “Tăng cường quản lý chi ngân sách Thành
phố Viêng chăn” đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 2/2009; Sisouphan với
bài “Đổi mới cách thức phân bổ kinh phí NSNN cho giáo dục phổ thông ở
CHDCND Lào” đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 5/2011;.v.v… Điểm
chung nhất của các bài báo là chủ yếu đề xuất những ý kiến mang tính tác
nghiệp gắn liền với vị trí mà các tác giả đang phải thực thi trách nhiệm
trong quản lý NSNN ở một ngành, hay ở một địa phương cụ thể. Do vậy,
những thông tin từ quản lý NSNN trên một giác độ nào đó của thực tiễn ở
mỗi địa phương hay mỗi ngành đã được trình bày có giá trị tham khảo cho
các nhà hoạch định chính sách về quản lý NSNN ở Bộ Tài chính CHDCND
Lào, hay các quan chức trong bộ máy Chính phủ có trách nhiệm trong quản
lý kinh tế của đất nước. Mặt khác, đây cũng là diễn đàn thể hiện tính dân
chủ trong luận bàn, đánh giá và tham vấn chính sách về quản lý NSNN một
cách rộng rãi, thể hiện quan điểm phát huy dân chủ của Chính phủ trong
quản lý kinh tế nói chung và NSNN nói riêng. Tuy nhiên, hàm lượng nghiên
cứu mang tính lý luận và những đòi hỏi trình bày phải có tính lôgic cho các
đề xuất, kiến nghị hoặc các luận giải về hiện tượng đã và đang diễn ra
trong thực tiễn thì còn rất thiếu hoặc rất nông cạn.
Gần đây đã có những công trình mang tầm lý luận và có tính khoa
học cao hơn xuất hiện trong lĩnh vực nghiên cứu về NSNN ở CHDCND
Lào, như:
Luận văn Thạc sĩ kinh tế về đề tài: “Giải pháp tăng cường quản lý
chi NSNN tại nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay” của học viên
Phonexay Phongsavanh năm 2010. Tác giả của bản luận văn này đã đạt
được những thành công sau:
Đã phân tích và làm sáng tỏ được mô hình phân cấp quản lý NSNN ở
CHDCND Lào từ năm 19862009 qua 4 giai đoạn gắn liền với những thay
đổi về cơ chế phân cấp quản lý về KTXH qua mỗi giai đoạn đó;
Trên cơ sở đánh giá thực trạng của phân cấp quản lý NSNN qua 4
giai đoạn nêu trên, kết hợp với chủ trương, đường lối về phân cấp quản lý
KTXH những năm tới, luận án đã đề xuất 06 nhóm giải pháp nhằm tăng
cường phân cấp quản lý NSNN ở CHDCND Lào những năm 20102015.
Mặc dù những thành công của luận án là không thể phủ nhận, nhưng
những thành công đó cũng mới chỉ được nhìn nhận trên giác độ phân cấp
về quản lý nguồn thu, nhiệm vụ chi gắn với cơ quan công quyền các cấp ở
CHDCND Lào trong thời gian đã qua. Tác giả của bản luận án vẫn chưa
làm rõ được trách nhiệm của chính các cơ quan công quyền các cấp đó
trong việc sử dụng công cụ ngân sách để thúc đẩy sự phát triển KTXH
trên mỗi địa bàn mà mình đã được phân cấp quản lý. Hay nói cách khác,
những quan hệ kinh tế và lợi ích, chưa được làm sáng tỏ cả về cơ sở lý
luận cũng như thực tiễn quản lý thông qua cơ chế phân cấp quản lý NSNN
ở CHDCND Lào thời gian qua. Thay vào đó là những mô tả nặng về diễn
biến tình hình thu, chi NSNN qua các giai đoạn nghiên cứu để rồi rút ra các
nhận xét đánh giá nặng về cảm tính.
Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài:“Giải pháp thực hiện cân đối
NSNN ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 20112015” do NCS
Phanxay Thammasith hoàn thành cuối năm 2011, lại có cách tiếp cận nghiên
cứu về NSNN ở CHDCND Lào trên giác độ cân đối.
Những thành công đáng ghi nhận của bản luận án này là:
6
Đã trình bày có hệ thống những vấn đề lý luận về cân đối NSNN
trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam” do NCS Nguyễn Khắc Đức hoàn
thành năm 2002. Những thành công đáng ghi nhận của luận án này, bao
gồm:
Đã đưa ra những vấn đề lý luận về NSNN và cơ cấu chi NSNN,
trong đó nhấn mạnh về nội dung, đặc điểm của cơ cấu chi NSNN, các
nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu chi, một số mô hình cơ cấu chi NSNN;
Đã sử dụng hệ thống số liệu để phân tích cơ cấu chi NSNN ở
CHXHCN Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
thời kỳ 19892000 gắn với hai giai đoạn: giai đoạn 19891995, trước khi có
Luật NSNN năm 1996 và giai đoạn 19962000, sau khi có Luật NSNN năm
1996;
Căn cứ trên các nhận xét về thực trạng cơ cấu chi NSNN ở
CHXHCN Việt Nam tác giả đưa ra các quan điểm về đổi mới cơ cấu chi
NSNN trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và làm chỗ dựa cho
đề xuất hệ thống giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN ở CHXHCN Việt
Nam giai đoạn 20012010 theo 03 nhóm giải pháp lớn.
Những giới hạn của luận án:
Luận án được hoàn thành từ năm 2002, nên hệ thống số liệu, hệ
thống giải pháp đã bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp trong tiến trình
đổi mới không ngừng về quản lý chi NSNN ở CHXHCN Việt Nam những
năm qua;
Đề tài tác giả viết về đổi mới cơ cấu chi NSNN nhưng không gắn
với một mục tiêu cụ thể nào đó trong phát triển KTXH, nên không có tác
động và mối quan hệ của đổi mới cơ cấu chi NSNN với sự thay đổi của
nền kinh tế trên các lĩnh vực, khía cạnh phát triển khác nhau.
8
(2) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Đổi mới cơ cấu chi NSNN góp
các vấn đề khác của tăng trưởng ngoài phạm vi CNHHĐH chưa được tác
giả nghiên cứu và đề cập trong luận án;
Mặt khác, theo thời gian các luận cứ; đặc biệt là các đề xuất, khuyến
nghị của luận án cũng đã bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp với hoàn
cảnh KTXH của những năm hậu khủng hoảng toàn cầu này.
(3) Luận án Tiến sĩ kinh tế về đề tài: “Đổi mới quản lý chi NSNN
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam ” do NCS Nguyễn Thị Minh
hoàn thành năm 2008.
Những thành công của luận án:
Đã khái quát hóa và thống nhất nhận thức về chi và quản lý chi
NSNN;
Đã làm sáng tỏ được tính tất yếu phải đổi mới quản lý chi NSNN ở
CHXHCN Việt Nam trong những năm mà tác giả luận án tiến hành nghiên
cứu;
Đã phân tích được thực trạng quản lý chi NSNN ở CHXHCN Việt
Nam kể từ khi thành lập nước CHXHCN Việt Nam dân chủ cộng hòa năm
1945 đến 2006 có gắn liền với những đánh giá theo các phương thức chi.
Trên cơ sở đó chỉ ra những bất cập của quản lý chi NSNN theo phương
thức truyền thống mà CHXHCN Việt Nam vẫn đang áp dụng;
Hệ thống các giải pháp đổi mới quản lý chi NSNN trong điều kiện
kinh tế thị trường ở CHXHCN Việt Nam do tác giả xây dựng dựa trên 05
nhóm giải pháp chủ yếu đã có tính khả thi trong bối cảnh ở CHXHCN Việt
Nam những năm 20082010.
Những giới hạn của luận án:
Với mục đích nghiên cứu khá rộng, nên tác giả của bản luận án trên
ngoài việc trình bày các nghiên cứu của mình trên diện rộng bao phủ toàn
bộ các khâu của chu trình quản lý chi NSNN; đồng thời có dành ưu tiên
10
chi ngân sách rất dễ gây ra những hiệu ứng tích cực cho tiến trình phát
triển hơn các địa phương khác.
2.2.2. Khảo cứu có liên quan
Một công trình nghiên cứu khá công phu của TS Phạm Thế Anh
Trung tâm nghiên cứu và chính sáchTrường Đại học kinh tếĐại học quốc
gia Hà Nội năm 2008 với tiêu đề “ Chi tiêu Chính phủ và tăng trưởng kinh
tế; Khảo sát lý luận tổng quan”, đã có những đánh giá khá sâu sắc về tương
quan giữa 2 lĩnh vực này. Cụ thể như:
Bài viết của tác giả được thực hiện dưới hình thức phân tích, đánh
giá về lý thuyết mối quan hệ chi tiêu Chính phủ và tăng trưởng kinh tế dựa
trên nghiên cứu các mô hình đã có của các tác giả trên thế giới. Các mô hình
lý thuyết về chi tiêu Chính phủ có tác động đến tăng trưởng như mô hình
kinh tế của Robert Barro năm 1990, Devarajan, Swaroop, và Zou năm 1996,
Davoodi và Zou năm 1998. Bên cạnh việc đánh giá nhận định các mô hình
nói trên tác giả đưa ra các nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả ví dụ
như: Tư bản nhân lực (Mankiw, Romer và Weil năm 1992), tích luỹ bí
quyết công nghệ (Nonnerman và Van năm 1996), Grier và Tullock năm
1989, Barro năm 1989 và năm 1991, Hansson và Henrekson năm 1994,...
Bên cạnh những thành công đáng kể, kết quả khảo cứu trên cũng bộc
lộ những hạn chế, như: Chưa hệ thống được các lý luận về tác động của
thay đổi chi tiêu NSNN tới tăng trưởng kinh tế. Tác giả có sử dụng hệ thống
số liệu cho mô hình thực nghiệm nhưng những kết luận sau khi có kết quả
mô hình chưa phản ánh rõ những biến động của chi NSNN tác động tới tăng
trưởng kinh tế.
Từ kết quả khảo sát các công trình có liên quan đến quản lý chi
NSNN ở các trong nước và ngoài nước, tác giả của luận án về đề tài: “
12
Tài chính các cấp, Kho bạc Quốc gia cần tiến hành sắp xếp lại bộ máy tổ
chức hiện có đảm bảo nguyên tắc gọn nhẹ, phân định rõ chức năng, nhiệm
vụ của từng đơn vị, bộ phận trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao;
hạn chế thấp nhất các thủ tục hành chính không cần thiết. Thành lập Vụ
phân tích và Dự báo thuộc Bộ Tài chính để thực hiện nhiệm vụ phân tích
và dự báo sự biến động của các chỉ số kinh tế phục vụ cho công tác quản
lý và điều hành NSNN.
Bên cạnh đó cần không ngừng đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ
cán bộ làm công tác quản lý NSNN để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu
nhiệm vụ được giao, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin và các
thiết bị hiện đại trong quản lý kinh tế.
Việc kiện toàn tổ chức, bồi dưỡng đào tạo cán bộ là những yếu tố
mang tính quyết định cho sự thành công của một hệ thống thu, chi NSNN.
Trên cơ sở thực trạng cán bộ thực thi công tác quản lý NSNN ở
CHDCND Lào hiện nay, mặc dù đã được đào tạo, bồi dưỡng khá nhiều.
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ ở CHDCND Lào chưa thực sự phù hợp với yêu
cầu hiện tại.
Trong thời gian tới cần tập trung vào một số nội dung sau đây:
Tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ cán bộ trực tiếp, kể cả về
chuyên môn và nghiệp vụ khác như: Máy vi tính, ngoại ngữ,…
Cần tổ chức và sắp xếp lại các cán bộ của các cơ quan cho đúng
với chuyên môn nghiệp vụ thực mà các cán bộ đã từng học đồng thời bổ
sung cán bộ mới có trình độ chuyên môn cao vào làm việc, các cán bộ đó
156
phải đảm bảo phù hợp với yêu cầu thực tế của cơ cấu tổ chức hiện hành
và phù hợp với khả năng thực tiễn của họ nhằm phát huy triệt để tiềm
năng, sở trường của cán bộ, tinh giảm biên chế đối với một số trường hợp
thu, không vì mục tiêu trước mắt, tận thu làm cạn kiệt nguồn thu, mất đi
nguồn thu lâu dài. Khi tiến hành khai thác, nuôi dưỡng nguồn thu NSNN,
chủ thể quản lý cần tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Xác định đầy đủ phạm vi các nguồn thu hiện có;
Bước 2: Làm rõ thế mạnh của những nguồn thu có khả năng khai
thác mở rộng;
Bước 3: Có những hỗ trợ kịp thời bằng chính vai trò của chính
quyền Nhà nước nhằm tăng cường khả năng mở rộng nguồn thu tiềm
năng.
Việc phân loại, đánh giá các nguồn thu là cần thiết; nhưng điều kiện
đủ là đòi hỏi chính quyền cấp tỉnh, thành phố cần sử dụng tổng hợp các kỹ
năng hỗ trợ khai thác thu để hoạt động tổ chức khai thác thu NSNN thực sự
có hiệu quả. Cụ thể là:
Thứ nhất: Lập kế hoạch xác định đúng những vấn đề trọng tâm
trong khai thác nguồn thu Ngân sách:
+ Xác định rõ mục đích của từng khoản thu là gì? Làm thế nào để
cho mọi người dân trong mỗi tỉnh, thành phố có thể hiểu và nhất trí với
mục đích của từng khoản thu;
+ Chính quyền cấp tỉnh, thành phố cần quan tâm đến cách thức công
khai cho mọi người dân về các vấn đề ngân sách. Tuy nhiên, cần chú ý tính
ưu, nhược điểm của từng cách thức để có phương án kết hợp tốt, đạt hiệu
quả quản lý thu ngân sách;
158
+ Tổ chức cho nhân dân có thể tham gia quyết định các mức thu và
cách thu đối với các khoản thu đóng góp tự nguyện;
Thứ hai: Xúc tiến các hoạt động hỗ trợ khai thác nguồn thu NSNN:
+ Tuyên truyền, vận động làm rõ ý nghĩa của việc huy động, vai trò
3.4.4. Công tác tuyên truyền
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin để các cấp, ngành có
liên quan và đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước nhận thức đúng đắn về ý
nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của quá trình cải cách hoạt động thu, chi
NSNN để có những biện pháp thiết thực thực góp phần cân đối NSNN, ổn
định kinh tế vĩ mô và thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển KTXH 5
năm lần thứ VII ở CHDCND Lào.
Trong công tác tập trung các khoản thu NSNN có kịp thời đầy đủ và
có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào ý thức tự giác chấp hành các
quy định về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, về thời hạn, quy định thu
NSNN của các đối tượng nộp.
Kinh nghiệm ở hầu hết các nước cho thấy, yếu tố cơ bản để thực
hiện thành công một sắc thuế mới không chỉ phụ thuộc vào hệ thống văn
bản pháp luật mà còn rất cần có sự hiểu biết sâu sắc, kỹ lưỡng ý thức tự
giác chấp hành của mỗi cán bộ thuế và của quảng đại quần chúng nhân
dân, đặc biệt là của những người nộp thuế. Cần giải thích để họ hiểu rằng
bản chất thuế dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là của dân, do dân, vì dân, Nhà
nước thu thuế để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, phát triển KT
XH để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, công bằng văn minh, vì vậy, nộp thuế là trách nhiệm của toàn
dân. Cần phải coi công tác tuyên truyền, giải thích về quyền lợi, trách
160
nhiệm của người nộp thuế là một công việc quan trọng cần được thực
hiện thường xuyên. Cơ quan thuế cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cấp
chính quyền địa phương và các cơ quan thông tin tuyên truyền đại chúng để
tiến hành các công việc cụ thể sau:
Soạn thảo, phổ biến rộng rãi các tài liệu giải thích, tuyên truyền về
sung nhằm làm cho chính sách thuế ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tập trung ngày càng nhiều nguồn thu cho NSNN.
3.4.5. Tăng cường trang thiết bị hiện đại hoá phục vụ công tác quản lý
thu, chi NSNN
Xuất phát từ bản chất, các cơ quan Thuế, Kho bạc Quốc gia các cấp
là cơ quan công quyền thực hiện chức năng của Nhà nước, do vậy thường
xuyên tiếp xúc với hầu hết các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, trụ sở các cơ
quan này phải được đầu tư thoả đáng, đảm bảo tính nghiêm minh của cơ
quan Nhà nước. Mạng lưới các cơ quan thực thi và quản lý NSNN từ Trung
ương đến Địa phương cần phải khang trang bề thế đồng thời phải tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho đối tượng trong việc giao dịch với các cơ
quan.
Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào hoạt động của các cơ
quan Thuế, Kho bạc Quốc gia; trong đó, ưu tiên đầu tư sử dụng các phần
mềm tiên tiến trên thế giới phù hợp với yêu cầu quản lý tài chính và ngân
sách trong tình hình mới và theo thông lệ quốc tế.
Huy động các nguồn lực tài chính để thực hiện đầu tư cho ứng dụng
và phát triển công nghệ thông tin. Chú trọng thu hút nguồn vốn ngoài nước
cho các dự án hiện đại hoá, tập trung vào dự án hệ thống thông tin quản lý
thu, chi NSNN của giai đoạn hiện nay và hướng mở rộng của dự án các
năm tới.
162
3.4.6. Về hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin phục vụ cho việc lập dự
toán và quản lý, điều hành NSNN theo dự toán
Để thực hiện việc xây dựng dự toán theo khuôn khổ chi tiêu trung
hạn và thực hiện quản lý, điều hành NSNN theo dự toán, hệ thống cơ sở
dữ liệu và thông tin thu, chi NSNN đóng một vai trò hết sức quan trọng. Bộ
Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan Tài chính, Thuế, Hải quan,
Kho bạc Quốc gia nhằm đẩy nhanh việc tập trung các khoản thu NSNN để
đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của các đơn vị sử dụng NSNN. Cơ quan Tài
chính, Kho bạc Quốc gia thường xuyên trao đổi thông tin để nắm bắt kịp
thời các số liệu về thu, chi, tồn quỹ NSNN để có biện pháp điều hành linh
hoạt trong từng tình huống cụ thể. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan
Tài chính, Kho bạc Quốc gia với ngân hàng trong việc tổ chức thanh toán,
chi trả các khoản chi của NSNN và bố trí nguồn đáp ứng các nhu cầu chi
tiêu khi tồn quỹ NSNN bị thiếu hụt tạm thời.
Trong công tác chống thất thu thuế, cơ quan Thuế tuy là nòng cốt
nhưng không thể một mình chống thất thu có hiệu quả được mà phải dựa
vào các tầng lớp dân cư, đặc biệt là các cấp các ngành, các cơ quan có chức
năng như:
Văn phòng bản: cơ quan Thuế nên phối hợp một cách thường xuyên
và chặt chẽ với tổ chức này để nắm bắt được những đặc điểm riêng biệt
của từng hộ kinh doanh và cũng có thể phát hiện ra được những hộ nào
mới ra kinh doanh từ đó hướng dẫn cho các hộ này đi đăng ký kinh doanh
và cấp mã số thuế cho họ, hoặc có thể phối hợp với Văn phòng bản để tổ
chức những buổi gặp mặt giữa đội tuyên truyền thuế và các hộ kinh doanh
trong bản từ đó cán bộ thuế có thể tuyên truyền, hướng dẫn và giải đáp
những vướng mắc về thuế để cho các hộ kinh doanh có thể hiểu biết được
sâu rộng hơn đối với quyền lợi và nghĩa vụ của họ đối với cơ quan Thuế.
164
Ngoài ra phối hợp với Văn phòng bản cũng có thể biết được kịp thời
những hộ đang có ý định chuyển đi kinh doanh nơi khác có nợ đọng thuế
hay không, tránh tình trạng các đơn vị có nợ đọng trốn đi kinh doanh nơi
khác mà không trả tiền thuế trước.
Lào nhằm mục tiêu phát triển KTXH giai đoạn 20152020 và tầm nhìn
2030;
Trình bày hệ thống các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở
CHDCND Lào và các giải pháp hỗ trợ cần thực hiện nhằm tao điều kiện
tốt nhất cho việc thực hiện các giải pháp hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở
CHDCND Lào thời gian tới.
Toàn bộ các giải pháp trên được cấu thành như một hệ thống, có
quan hệ mật thiết với nhau. Chính vì vậy, để hoàn thiện cơ cấu chi NSNN
ở CHDCND Lào trong giai đoạn tới cần thực hiện một cách đồng bộ các
giải pháp. Mặt khác không được xem nhẹ các giải pháp hỗ trợ vì đây là
những điều kiện cần thiết để hoàn thiện cơ cấu chi NSNN ở CHDCND
Lào.
166
KẾT LUẬN
Cùng với quá trình phát triển KTXH đất nước, thời gian qua công tác
quản lý điều hành chi NSNN ở CHDCND Lào đã đạt được nhiều tiến bộ
nhất định. Cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào đã cơ bản đảm bảo được
các nhu cầu chi tiêu tối thiểu của bộ máy Nhà nước, từng bước gắn với các
mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng KTXH, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện xóa đói giảm
nghèo và đảm bảo công bằng xã hội. Bên cạnh đó, những hạn chế, tồn tại
trong cơ cấu chi NSNN ở CHDCND Lào đòi hỏi phải sớm được khắc phục
và hoàn thiện trong thời gian tới.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đánh giá tác động của cơ
cấu chi NSNN ở CHDCND Lào đến đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo và đảm bảo