Giải quyết các tranh chấp trong thương mại Quốc tế ở Việt Nam hiện nay - Pdf 58

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
1
1
Mở đầu
rong kinh doanh, tranh chấp tồn tại như một tất yếu: có thể ở dạng
tranh chấp hiện tại, cần phải giải quyết hoặc tranh chấp tương lại. Các
mối quan hệ càng nhiều, càng phức tạp thì khả năng xảy ra tranh chấp càng lớn, bất
chấp một khung pháp lý có hoàn chỉnh đến đâu - bởi không phải lúc nào các bên
cũng tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh. Đặc biệt trong thương mại Quốc tế,
lĩnh vực mà các bên tham gia có những đặc điểm về tập quán kinh doanh, ngôn ngữ
và cả các đặc điểm văn hoá rất khác nhau, thì tranh chấp lại càng lớn, cả về mặt quy
mô và khả năng xảy ra tranh chấp. Chỉ cần một sự sai lệnh nhỏ trong cách hiểu, xuất
phát từ bất đồng ngôn ngữ là đã có thể dẫn đến tranh chấp. Đây là chưa nói đến vấn
đề phức tạm hơn là văn hoá và tập quán kinh doanh. Chẳng hạn như hàng nhập khẩu
vào Trung Quốc bắt buộc phải có mã số, mã vạch, và điều này được coi là đương
nhiên đối với các nhà nhập khẩu Trung Quốc và do đó có thể gây thiệt hại cho nhà
xuất khẩu nếu không chú ý đến điều đó trong thoả thuận hợp đồng. Hay như quy
định về điều kiện cơ sở giao hàng của Hoa Kỳ không hoàn toàn giống với các điều
kiện cơ sở giao hàng của Phòng Thương mại quốc tế (Incoterm) mà nếu không
nghiên cứu kỹ các bên có thể dẫn đến tranh chấp về các khoản chi phí giao hàng,
Trước khi bắt đầu một thương vụ, các chủ thể không bao giờ muốn có
tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, nó vẫn có thể xảy ra do những nguyên nhân chủ
quan và khách quan. Chính vì vậy, việc nghiên cứu để hạn chế đến mức thấp
nhất khả năng xảy ra tranh chấp là điều luôn được quan tâm. Nhưng một khi
tranh chấp đã xảy ra, hoặc để đảm bảo lợi ích cho bản thân trong trường hợp
xảy ra tranh chấp, thì vấn đề lựa chọn một phương pháp giải quyết tranh chấp
cũng cần được quan tâm thích đáng, sao cho tranh chấp được giải quyết thoả
đáng với chi phí về thời gian, công sức và tiền bạc là ít nhất.
Một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp hay được áp dụng hiện
nay là thông qua trọng tài kinh tế. Có nhiều ưu điểm của phương pháp này so
với các phương pháp khác: như tính bảo mật, độ tin cậy cao. khiến nó trở

triển của các quan hệ kinh tế xã hội, tranh chấp cũng phát sinh và đặt ra nhu
cầu được giải quyết sao cho công bằng và hợp lý nhất trong bối cảnh kinh tế -
chính trị - xã hội đó.
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn
về quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng,
mâu thuẫn này có thể phát sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật
điều chỉnh nên chúng được gọi theo ngành luật đó. Ví dụ: Tranh chấp về tiền
lương giữa người lao động và người sử dụng lao động được gọi là tranh chấp
lao động. Tương tự như vậy, tranh chấp dân sự, tranh chấp đất đai ... những
tranh chấp rõ là có liên quan đến lợi ích kinh tế của các bên. Do đó chúng có
thể được gọi là tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng. Một đặc trưng của các
tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng đó là các chủ thể tham gia vào quan hệ này
không nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Trong phạm vi hẹp, quan hệ kinh tế là quan hệ giã các chủ thể kinh
doanh trong lĩnh vực kinh tế. Kể từ khi nước ta có pháp luật về hợp đồng kinh
tế, những tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng kinh tế gọi là tranh chấp
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
3
3
kinh tế, đó là sự bất đồng quan điểm của các bên về việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng kinh tế. Song trong nền kinh tế thị
trường mở cửa và nhiều thành phần kinh tế hiện nay, tranh chấp kinh tế không
chỉ đơn thuần là tranh chấp hợp đồng kinh tế, mà còn nhiều loại tranh chấp
khác, phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh như: tranh chấp giã công
ty và các thành viên công ty; giữa các thành viên công ty với nhau, các tranh
chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu...
Tóm lại: "tranh chấp kinh tế là tranh chấp trong quan hệ kinh doanh "
Kinh doanh như quy định tại Khoản 2 - Điều 3 - Luật doanh nghiệp "Là việc
thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục

1.1.2. Tranh chấp thương mại
1.1.2.1. Khái niệm
Một cách đơn giản có thể hiểu tranh chấp thương mại là tranh chấp phát
sinh trong lĩnh vực thương mại. Điều 238 Luật thương mại Việt Nam nêu ra
khái niệm về tranh chấp thương mại "là tranh chấp phát sinh do việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt đồng thương mại".
Tại Khoản 2 - Điều 5 cũng quy định "hoạt động thương mại là việc thực
hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương
mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã
hội".
Tuy nhiên, hành vi thương mại gồm những hành vi nào là điều đáng
quan tâm hơn cả. Hiện nay trên thế giới có nhiều quy định khác nhau về hành
vi thương mại:
ở Việt Nam, Điều 45 Luật thương mại quy định các loại hành vi thương
mại gồm:
1. Mua bán hàng hoá
2. Đại diện cho thương nhân
3. Môi giới thương mại
4. Uỷ thác mua bán hàng hoá
5. Đại lý mua bán hàng hoá
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
5
5
6. Gia công trong thương mại
7. Đấu giá hàng hoá
8. Dịch vụ giao nhận hàng hoá
9. Đấu thầu hàng hoá
10. Dịch vụ giám định hàng hoá
11. Khuyến mại

* Tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên
- Tranh chấp do người mua không thực hiện hay thực hiện không đúng
theo quy định của hợp đồng.
- Tranh chấp do người bán không thực hiện hay thực hiện không đúng
theo quy định hợp đồng.
* Tranh chấp hiện tại và tranh chấp tương lai. Tranh chấp hiện tại là
tranh chấp đã xảy ra đang cần được giải quyết. Tranh chấp tương lai được hiểu
là tranh chấp có thể xảy ra và việc giải quyết được dự liệu trong một điều
khoản của hợp đồng.
* Theo nghiệp vụ giao dịch
- Tranh chấp liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá
- Tranh chấp liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá
- Tranh chấp liên quan đến viêc thanh toán
* Theo tính pháp lý của hợp đồng (gồm có giá trị pháp lý và hiệu lực của
hợp đồng)
- Tranh chấp liên quan đến việc áp dụng sai chế độ ký kết hợp đồng
Vi phạm nguyên tắc ký kết
Căn cứ ký kết không hợp pháp
Chủ thể ký kết hợp đồng không hợp pháp, hợp lệ
- Tranh chấp liên quan đến nội dung của hợp đồng
- Tranh chấp liên quan đến cách thức ký kết hợp đồng
* Theo tiến trình thực hiện hợp đồng
- Tranh chấp trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng
- Tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng
+ Do người bán không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
vụ của mình như đã thoả thuận trong hợp đồng (liên quan đến nghĩa vụ giao
hàng, cung cấp chứng từ hàng hoá, thông qua kiểm định...).
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
7
7

8
8
Thứ tư, tranh chấp thương mại có tính chất đa dạng, phức tạp, từ tranh
chấp này có thể dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức tạp và đa dạng của
các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể có lợi ích khác nhau trong nền kinh tế thị
trường. Mặt khác, mua bán trao đổi là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên
tục, các chủ thể cùng một lúc có thể thiết lập nhiều mối quan hệ kinh tế khiến
cho những mối quan hệ này tạo thành một chuỗi quan hệ có liên quan đến nhau
khiến cho nếu tranh chấp phát sinh ở quan hệ này sẽ rất có thể dẫn đến tranh
chấp trong mối quan hệ khác. Chẳng hạn doanh nghiệp A vay tiền của ngân hàng
để mua nguyên vật liệu của doanh nghiệp B và bán sản phẩm cho doanh nghiệp
C theo các hợp đồng đã ký. Nếu doanh nghiệp B không cung cấp đúng nguyên
vật liệu như đã thoả thuận thì doanh nghiệp A cũng sẽ không giao được hàng cho
bên C như trong hợp đồng và không thu hồi được vốn đầu tư để trả cho ngân
hàng. Tranh chấp phát sinh giữa doanh nghiệp A và doanh nghiệp B; doanh
nghiệp A và doanh nghiệp C; doanh nghiệp A và ngân hàng.
1.1.2.4. Tính tất yếu tồn tại tranh chấp thương mại trong nền kinh tế thị
trường.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội, sản phẩm được sản
xuất ra để bán, trao đổi trên thị trường, mọi yếu tố đầu vào và đầu ra đều là
đối tượng tự do mua bán trên thị trường kể cả sản phẩm chất xám. Kinh tế thị
trường là nền kinh tế tiền tệ hoá rất cao, mục đích của các chủ thể khi tham
gia vào kinh tế thị trường là lợi nhuận, lợi nhuận càng cao càng tốt.
Trong cơ chế thị trường, các chủ thể kinh tế có quyền tự chủ rất cao và
họ có toàn quyền quyết định việc thiết lập các quan hệ kinh tế - thương mại
của mình miễn là không trái với quy định của pháp luật. Chính vì vậy các
quan hệ thương mại trong nền kinh tế rất đa dạng và phức tạp. Tính phức tạp
và chồng chéo đan xen của các quan hệ thương mại ẩn chứa một nguy cơ cao
phát sinh tranh chấp. Chỉ một trục trặc nhỏ trong "mắt xích" sẽ làm kéo theo
hàng loạt các trục trặc khác và làm nảy sinh tranh chấp.

nhuận họ sẵn sàng có những hành động cố tình vi phạm hợp đồng, hoặc lừa
đào khách hàng... làm thiệt hại cho đối tác. Bản thân mục tiêu lợi nhuận
không mang tính đạo đức nhưng cách thức để đạt được lợi nhuận thì có và
tranh chấp phát sinh, trong trường hợp này thuộc về lý do chủ quan. Rõ ràng
trong nền kinh tế thị trường quan hệ kinh tế trở lên sống động, đa dạng và
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
10
10
phức tạp. Mục đích nhằm tối đa hoá lợi nhuận trở thành động lực trực tiếp của
các bên tham gia quan hệ kinh tế thương mại. Trong điều kiện đó, tranh chấp
là một vấn đề tất yếu, không thể tránh khỏi, đòi hỏi phải có sự quan tâm giải
quyết một cách thoả đáng. Điều này vừa là một yêu cầu nghiêm ngặt của
nguyên tắc pháp chế vừa là một đòi hỏi bức xúc của quan hệ kinh tế nói chung
và quan hệ thương mại nói riêng.
1.1.3. Giải quyết tranh chấp thương mại trong nền kinh tế thị trường
Cùng với sự phát triển của kinh tế, tính đa dạng và phức tạp trong quan
hệ thương mại làm cho tranh chấp thương mại cũng trở lên phức tạp về nội
dung, gay gắt về mức độ tranh chấp và phong phú hơn nhiều về chủng loại
xuất phát từ lợi nhuận của các bên và sự hấp dẫn của nền kinh tế, việc giải
quyết tranh chấp là hết sức quan trong và cần thiết.
1.1.3.1. ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả.
Khi bắt đầu một thương vụ, các chủ thể không bao giờ muốn tranh chấp
xảy ra bởi tranh chấp đồng nghĩa với sự ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
của họ, làm gián đoạn quá trình kinh doanh, tốn thời gian chi phí và công sức
để giải quyết tranh chấp. Không những thế còn liên quan đến chủ thể khác có
quan hệ với các bên tranh chấp, uy tín của chủ thể trên thương trường có thể bị
ảnh hưởng, cũng như các yếu tố khác thuộc về bí mật kinh doanh có thể bị tiết
lộ hoặc bị lợi dụng...
Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp cho phép hạn
chế đến mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt ở

chỗ các bên có quyền thoả thuận phương thức giải quyết tranh chấp có lợi nhật
có thể là tự thương lượng, hoặc thông qua trung gian hoà giải, hoặc thông qua
một hình thức tài phán. Sau đó các bên có thể không nhất thiết phải tham gia
tố tụng mà có thể uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng, có quyền nhờ
luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Cuối cùng khi đã
đưa tranh chấp ra trọng tài hoặc toà án các bên có quyền hoà giải hoặc thay
đổi nội dung đơn kiện hoặc rút đơn kiện.
- Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật: Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của các bên không phân biệt thành phần kinh tế, số vốn, tài sản.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
12
12
- Nguyên tắc hoà giải: Trước hết các bên phải tiến hành tự hoà giải, chỉ
khi nào không hoà giải được mới nhờ đến các cơ quan tài phán giải quyết. Khi
thụ lý vụ án các cơ quan tài phán cũng tiến hành các biện pháp hoà giải và
công nhận hoà giải trước khi xét xử. (Quy định tại Điều 35 pháp lệnh giải
quyết vụ án tranh chấp kinh tế, Điều 35 quy tắc tố tụng trọng tài trong nước và
Điều 35 quy tắc tố tụng của trung tâm trong tài quốc tế Việt Nam).
- Nguyên tắc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và kịp thời, đảm bảo
hạn chế gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh doanh được
thực hiện theo chu trình sản xuất khép kín, vì vậy ở bất kỳ một công đoạn nào
xảy ra trục trặc đều dẫn đến ảnh hưởng toàn bộ quá trình kinh doanh. Giải
quyết tranh chấp không được tiến hành một cách nhanh chóng kịp thời sẽ ảnh
hưởng tới sự tồn tại và phát triển vững mạnh của chủ thể kinh doanh. Nhanh
chóng, kịp thời nhưng phải dứt điểm, đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ
lợi ích hợp pháp của các bên.
Ngoài ra, xuất phát từ mức độ lợi ích của doanh nghiệp, việc giải quyết
tranh chấp phải quan tâm đến một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, là giải quyết đước tranh chấp với chi phí thấp nhất về tiền bạc và
thời gian chi phí để bỏ ra giải quyết tranh chấp cũng là chi phí kinh doanh, vì vậy

chấp thông qua thủ tục đơn kiện.
1.1.3.3. Các biện pháp giải quyết tranh chấp.
a. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng.
Đây là biện pháp các bên áp dụng trước khi đi kiện khi pháp sinh tranh
chấp. Các bên sẽ đưa ra trao đổi bàn bạc các biện pháp để đi đến thống nhất
chung cho việc giải quyết tranh chấp. Các bên có thể trực tiếp hoặc thông qua
đại diện gặp nhau đàm phán để giải quyết những vấn đề phát sinh. Đại diện
củ7a mỗi bên có thể là giám đốc, là người được giám đốc uỷ quyền hoặc luật sư
thay mặt doanh nghiệp đó tham gia vào quá trình thương lượng. Việc thương
lượng có thể tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các hình thức trao đổi thông
tin.
Trong hình thức thương lượng, các bên có quyền tự do ý trí, bình đẳng,
cùng nhau xem xét vấn đề trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành.
Nếu các bên đạt được sự thoả thuận thì coi như tranh chấp được giải quyết.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
14
14
Biện pháp thương lượng là biện pháp giải quyết đơn giản, tiết kiệm
được thời gian và chi phí đối với mỗi bên. Việc thương lượng còn thể hiện sự
thiện chí thương lượng của các bên trong việc giải quyết tranh chấp, sau khi đã
thoả thuận thống nhất các bên vẫn giữ được mối quan hệ tốt với nhau trong các
thương vụ sau này, cũng như giữ được uy tín và bảo vệ được bí mất kinh doanh.
Tuy vậy biện pháp này thường chỉ thành công khi các bên cùng có thiện
chí trong việc giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên tỏ ra quá nóng vội,
khiêu khích thì quá trình thương lượng coi như thất bại. Mặt khác, nếu mâu
thuẫn quá phức tạp các bên không giữ được cách đánh giá khách quan thì rất
khó thoả hiệp. Hoặc nếu tranh chấp liên quan đến nhiều bên, tranh chấp mà
việc giải quyết nó nằm ngoài khả năng của các bên thì phải có một bên thứ ba
hoặc một cơ quan hoà giải mới giải quyết được chứ thương lượng không giúp
ích gì nhiều.

gian hoà giải có thể là một tổ chức Chính phủ như đại sứ quán các trung tâm
xúc tiến thương mại... hoặc là các tổ chức phi Chính phủ .
Hai phương thức trên có giải quyết tranh chấp thành công hay không
đều phụ thuộc rất lớn vào sự tự nguyện và thiện ý của các bên. Thiếu những
yếu tố đó việc giải quyết tranh chấp sẽ thất bại. Do đó cần giải quyết bằng
những phương thức khác, quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp phải
được tuân thủ. Người có quyền lợi bị vi phạm sau khi không thành công trong
việc áp dụng của các biện pháp trên (hoặc bỏ qua) có thể kiện ra toà án hoặc
trọng tài để bảo vệ quyền lợi của mình.
c. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục toà án.
Điều 1 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đã quy định về quyền
yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp như sau "cá nhân, pháp nhân,
theo thủ tục do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện vụ án kinh tếư để yêu cầu
toàn án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình''.
Tranh chấp kinh tế nói chung và tranh chấp thương mại nói riêng được
kiện đối và xét xử ở toà kinh tế. Toà án có thẩm quyền xét xử các tranh chấp
pháp sinh từ tất cả các mối quan hệ kinh tếư trong nước kể cả thủ tục giải
quyết phá sản doanh nghiệp.
Thẩm quyền giải quyết của toà án được phân cấp, theo lãnh thổ và theo
sự lựa chọn của nguyên đơn.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
16
16
+ Thẩm quyền theo cấp:
Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh
chấp hợp đồng kinh tế mà giá trị thấp dưới 50 triệu, trừ những tranh chấp có
yếu tố nước ngoài.
Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án kinh
tếư thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện.
Toà án kinh tế Toà án nhân dân tối cao chỉ xét xử giám đốc thẩm và tái

Trong một số trường hợp đặc biệt sau khi thi hành án, có thể có những
phiên giám đốc thẩm và tái thẩm.
Giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng tại Toà án thường là giải pháp
cuối cùng của các bên bởi quyết định của Toà án có tính cưỡng chế rất cao vì
được đảm bảo bằng bộ máy thi hành và giám sát thi hành án của Nhà nước.
Ngoài ra trong quá trình thụ lý và xét xử , Toà án có thể đưa ra những "biện
pháp khẩn cấp tạm thời" như tạm giữ tài sản, phong toả tài khoản... để bảo vệ
bằng chứng, bảo đảm việc thi hành án.
Tuy nhiên, tranh chấp kinh tế trên thế giới thường ít được kiện ra Toà án
vị nhiều lý do. Trước hết đó là trong thủ tục Toà án, quyền tự quyết của các
đương sự ở mức thấp nhất so với các phương thức khác, pháp luật can thiệp
trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp. Các bên sẽ phải tuân thủ theo
những thủ tục cứng nhắc, bắt buộc, phức tạp và kéo dài, án phí lại thường cao.
Thứ hai, một khi đã đưa tranh chấp ra Toà thì những bí mật kinh doanh cũng
như uy tín của doanh nghiệp sẽ không được bảo toàn, cho dù doanh nghiệp là
bên thắng kiện. Thứ ba, khi đã kiện tụng trước Toàn thì quan hệ hợp tác giữa
hai bên khó có thể duy trì, doanh nghiệp sẽ mất một đối tác, một bạn hàng
nghĩa là mất nguồn lợi do quan hệ kinh tế đem lại.
d. Giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục trọng tài
Tranh chấp thương mại có thể được giải quyết thông qua trọng tài kinh
tế. Đây là một phương thức giải quyết tranh chấp do các bên tự thoả thuận lập
ra nhằm giải quyết dứt điểm các vụ tranh chấp. Trọng tài kinh tế tồn tại từ rất
lâu và phát triển mạnh mẽ trên thế giới như ngày nay vì tố tụng của nó đã
mang lại những lợi ích thiết thực cho các nhà doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt
Nam trọng tài phi Chính phủ vẫn còn chưa quen thuộc với đa số các nhà
doanh nghiệp. Phần tiềp theo, người viết sẽ tập trung vào phương pháp giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
18
18

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
19
19
Khi áp dụng hình thức trọng tài AD - HOC, các bên phải tự thoả
thuận và lập ra quy tắc tố tụng, lựa chọn trọng tài viên và địa điểm xét xử.
Về cơ bản các bên không bị ràng buộc bởi các quy định pháp lý về tố tụng
khi mà họ vẫn đảm bảo được nguyên tắc khách quan trong quá trình xét
xử trường hợp của họ.
Giải quyết bằng trọng tài AD - HOC khá đơn giản, nhanh chóng và tiết
kiệm được chi phí do không phải trả phí cho bộ máy hành chính. Đây là biện
pháp giải quyết tranh chấp mềm dẻo, linh hoạt, phán quyết của trọng tài AD -
HOC vẫn được công nhận có giá trị chung thẩm và được thi hành.
Để thuận lợi hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp thì khi lựa chọn
trọng tài vụ việc, các bên nên thoả thuận quy tắc tố tụng trong hợp đồng để khi
muốn áp dụng thì chỉ cần dẫn chiếu. Trong trường hợp cần thiết, các bên có thể
sửa đổi, bổ sung một số chi tiết cho phù hợp với tính chất từng vụ việc. Việc áp
dụng các quy tắc này không đòi hỏi các bên phải trả thêm bất kỳ một khoản lệ
phí nào mà lại có thể mang lại cho các bên một cách thức giải quyết nhanh.
Tuy nhiên trọng tài vụ việc còn có nhược điểm là tính hiệu quả của nó
phụ thuộc vào tinh thần hợp tác toàn diện của các bên tranh chấp và cần có sự
hỗ trợ của một hệ thống pháp luật kinh tế hoàn chỉnh. Nguyên tắc "tự do lựa
chọn" sẽ chỉ là hình thức nếu các bên không có thiện chí với nhau. Trình tự
xét xử dễ bị trì hoãn nếu các bên không thống nhất được thủ tục giải quyết
hoặc trở ngại trong việc lựa chọn trong tài viên.
Trọng tài vụ việc trên thực tế chỉ thích hợp với những tranh chấp nhỏ,
khi các đương sự có sự am hiểu về pháp luật, dày dạn trên thương trường và có
kinh nghiệp tranh tụng.
Trọng tài thường trực: bên cạnh loại hình trọng tài AD - HOC, còn có
loại hình trọng tài hoạt động thường xuyên, theo thông lệ quốc tế được gọi là
trọng tài thường trực hay trọng tài quy chế. Trọng tài thường trực có điều lệ

nghiệp mới bước vào nghề, hoặc không am hiểu nhiều về luật pháp, về thủ tục
kiện tụng. Nếu họ không muốn có điều gì bất lợi cho mình thì họ chọn trọng
tài thường trực với bộ quy tắc có sẵn để giải quyết tranh chấp. Hơn nữa trọng
tài quy chế hoạt động thường xuyên, có tổ chức chặt chẽ tạo điều kiện cho các
bên dễ dàng quy định một thoả thuận trọng tài riêng. Một ưu điểm khác của
trọng tài quy chế là vấn đề lựa chọn trọng tài viên. Trong trường hợp vụ việc
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
21
21
tranh chấp bị một bên gây căng thẳng làm cản trở việc lựa chọn trọng tài viên
thì sự chỉ định của Chủ tịch Trung tâm trọng tài là hết sức cần thiết. Các trọng
tài Trung tâm là những người được tuyển chọn kỹ càng, và các bên hoàn toàn
có thể đặt niềm tin vào trình độ chuyền môn cũng như sự khách quan của họ.
Ngoài ra còn phải kể đến vai trò của ban thư ký đối với quá trình giải quyết
tranh chấp, họ có nhiệmvụ theo dõi, giám sát việc giải quyết tranh chấp làm
cho quá trình thụ lý và xét xử không bị gián đoạn.
Bên cạnh những ưu điểm trên thì trọng tài quy chế cũng có những hạn
chế nhất định như chi phí trọng tài cao hơn so với trọng tài AD - HOC. Ngoài
chi phí trọng tài, các tổ chức trọng tài còn thu thêm phí hành chính. Và cũng
do bộ máy hành chính nên đôi khi quá trình tố tụng trọng tài quy chế kéo dài
vì phải tuân thủ những thủ tục trong quy tắc tố tụng một cách tuần tự và
nghiêm chỉnh. Nguyên tắc "tự do lựa chọn" của các bên thực chất đã bị hạn
chế trong quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài.
Theo kinh nghiệm, khi phải giải quyết những vụ tranh chấp phức tạp, có
giá trị kinh tế cao thì nên kiện ra trong trọng tài quy chế.
b. Căn cứ theo vị trí trọng tì trong hệ thống tổ chức gồm:
Trọng tài Nhà nước: (hay còn gọi là trọng tài Chính phủ): Là cơ quan
thuộc hệ thống cơ quan chấp hành và điều hành Nhà nước, có chức năng quản
lý Nhà nước đối với công tác hợp đồng kinh tế. Hoạt động giải quyết tranh
chấp, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế cũng chính là phương tiện để đạt được

hành về thẩm quyền của trọng tài kinh tế được quy định tại Nghị định 116/CP về
tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế, "trọng tài có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp sau đây, không phụ thuộc vào quốc tịch của các bên tranh chấp.
Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa
pháp nhân với doanh nghiệp tư nhân, giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh
nghiệp tư nhân và giữa pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân với cá nhân kinh
doanh...
Vấn đề thoả thuận chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp còn được quy
định trong nhiều văn bản pháp luật khác của Việt Nam. Ví dụ Mục 3 Điều 239
Luật Thương mại quy định: "Trong trường hợp thương lượng hoặc hoà giải
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
23
23
không đạt kết quả thì tranh chấp thương mại tại trọng tài, Toà án được tiến hành
theo các thủ tục tố tụng của trọng tài, Toà án mà các bên lựa chọn". Điều 21b
Điều lệ mua bán licent, Điều 241 Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Khoản 2 Điều 30
Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Điều 38 Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế, Điều 24 Luật đầu tư nước ngoài... cũng có những quy định tương tự.
1.2.3. Nguyên tắc của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Quy tắc tố tụng là khung pháp lý mà Uỷ ban trọng tài và các bên đương
sự phải tuân theo. Do trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp được hình thành
trên cơ sở tự nguyện của các trọng tài viên, theo quy định của Pháp luật; hoặc
trên cơ sở lựa chọn của các đương sự (trọng tài AD - HOC), nên không tồn tại
một tố tụng thống nhất. Tuy vậy, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
của tất cả các tổ chức, hình thức trọng tài phải đảm bảo các nguyên tắc sau mà
nếu vi phạm các nguyên tắc này sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý rất phức tạp.
+ Nguyên tắc tự nguyện: Là nguyên tắc cốt lõi trong vấn đề trọng tài vì
trọng tài được hình thành là do ý chí tự nguyện của các bên đương sự và trong
quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài đều nhân danh ý chí tối cao của các
bên đương sự. Họ có thể thoả thuận chọn hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài,

1.2.4. Các vấn đề khi đưa tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài.
1.2.4.1. Thoả thuận trọng tài.
Như trên đã đề cập, để giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng
trọng tài thì điều kiện cần là phải có tranh chấp phát sinh và điều kiện đủ là
phải có một thoả thuận giữa các bên thống nhất đưa ra tranh chấp ra giải quyết
ở trọng tài.
Thoả thuận trọng tài là thoả thuận của các bên có liên quan đưa ra tranh
chấp đã xảy ra hoặc có thể xảy ra để giải quyết thông qua thủ tục trọng tài.
Thoả thuận trọng tài có giữa các bên đồng nghĩa với việc các bên đã
gián tiếp thoả thuận khước từ thẩm quyền xét xử của Toà án quốc gia. Nếu
không có thoả thuận sẽ không có trọng tài, hoặc nếu trọng tài không được tiến
hành dựa trên cơ sở thoả thuận thì trọng tài này bị pháp luật coi là vô hiệu khi
đã thoả thuận, các bên phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ thoả thuận này.
Nếu một bên vi phạm thoả thuận trọng tài, bên kia có quyền yêu cầu Toà án
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TTTT quốc tế Việt Nam
25
25
can thiệp buộc bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ thoả thuận trọng tài không
dẫn đến các chế tài phạt như trong chế tài phát hợp đồng. Thay cho chế tài
buộc thực hiện hợp đồng phạt hoặc bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, thông
thường là quy định của pháp luật đảm bảo cho thoả thuận trọng tài được thực
hiện mà không phụ thuộc vào ý chí của các bên liên quan.
Thoả thuận trọng tài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài. Đó chính là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt toàn bộ hoạt
động của trong tài: từ lúc đưa tranh chấp ra trọng tài nào, chọn trọng tài viên
ra sao... cho đến cách thức thủ tục giải quyết tranh chấp.
Thoả thuận trọng tài tồn tại dưới hai dạng đó là Điều khoản trọng tài
trong hợp đồng và thoả thuận trong tài riêng biệt. Điều khoản trọng tài trong
hợp đồng là thoả thuận giữa cá bên hợp đồng chon trọng tài để giải quyết
tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai. Điều khoản này nằm ở phần cuối hợp


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status