Tư tưởng thiên nhân hợp nhất trong triết học trung quốc cổ đại và ý nghĩa của nó đối với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở việt nam hiện nay - Pdf 55

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trong xu thế phát triển của thời đại ngày nay, vấn đề môi trường sống
của con người có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việt Nam đang trong tiến trình
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước lại càng phải đối mặt với nhiều vấn
đề về môi trường. Quan điểm chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam là
xem việc bảo vệ môi trường là vấn đề sống còn trong phát triển bền vững
quốc gia. Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ: “Tăng trưởng kinh tế đi liền
với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi
trường” , xem việc bảo vệ môi trường là vấn đề sống còn trong phát triển bền
vững quốc gia.
Trên thực tế, một học thuyết chỉ thực sự có giá trị khi nó phục vụ cho
cuộc sống con người. Tư tưởng Thiên nhân hợp nhất trong triết học Trung
Quốc cổ đại là một trong những đơn cử tiêu biểu. Các triết gia cho rằng con
người và thiên nhiên là một tổng thể hợp nhất, sự sinh tồn và sự phát triển
chất lượng cuộc sống loài người chủ yếu dựa vào sự sinh tồn và phát triển của
vạn vật trong tự nhiên, vì vậy mới có câu “Thiên nhân hợp nhất” và “dân dĩ
thực vi thiên”. Con người và thiên nhiên có mối quan hệ mật thiết với nhau,
con người trong bất kỳ thời khắc nào cũng chịu ảnh hưởng từ thiên nhiên,
cũng như con cá sống trong nước vậy, nước là môi trường sống của cá, là tất
cả cuộc sống của cá, môi trường nước thay đổi, nhất định sẽ ảnh hưởng đến
sự sống của cá, con người cũng vậy, thiên nhiên có sự thay đổi tất sẽ ảnh
hưởng đến cuộc sống của loài người. Người xưa đặt con người trong môi

Trong quá trình phát triển đất nước ta, vấn đề tự nhiên và môi trường
sinh thái được đặt lên hàng đầu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan
được công bố trên sách, báo, tạp chí… Có thể phân chia các công trình nghiên
cứu thành hai nhóm như sau:

3


Nhóm công trình nghiên cứu về tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất” trong
triết học Trung Quốc cổ đại. Trong lịch sử triết học nói chung và triết học
Phương Đông nói riêng tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất” xuất hiện từ rất sớm,
được luận giải trong các mặt bản thể luận và nhân sinh quan với các trường
phái và đại biểu tiêu biểu như: Nho gia, Đạo gia, Âm Dương gia …v..v… Mặc
dù tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất ” chưa được thể hiện trong một tác phẩm
trọn vẹn nào, song trong nhiều tác phẩm và tài liệu nghiên cứu đề cập đến vấn
đề này. Đặc biệt nhất phải nói đến là tác phẩm “Đạo đức kinh” của Lão tử,
trong tác phẩm này Lão tử có một tư tưởng lớn đó là “vô vi”, tư tưởng này
chứa đựng yếu tố “Thiên nhân hợp nhất” rõ nét nhất. Đây cũng là tư tưởng đặc
sắc nhất của Đạo gia. “Vô vi” là khuynh hướng đưa con người trở về nguồn
gốc để sống với tự nhiên, tức hợp với Đạo. Tiếp đó là thuyết “Thiên mệnh” của
Khổng tử và sự hòa hợp Âm – Dương của trường phái Âm Dương gia. Tư
tưởng về “Thiên nhân hợp nhất” của các triết gia Trung Quốc cổ đại đã được
C.Mác – Ph.Ăngghen kế thừa và phát triển thành quan điểm biện chứng giữa
con người và tự nhiên. Một số tác phẩm bàn về vấn đề này đó là: Biện chứng
của tự nhiên; Bản thảo kinh tế triết học; Bộ tư bản; Hệ tư tưởng Đức… Trong
các tác phẩm này Mác – Ăngghen đã luận giải sâu sắc mối quan hệ giữa con
người – xã hội – tự nhiên mà thực chất là mối quan hệ biện chứng giữa phát
triển con người và bảo vệ môi trường.
Ở Việt Nam cũng có nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu vấn đề này từ
nhiều khía cạch khác nhau dựa trên nền tảng tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất”

người với tự nhiên, hay chính là nội dung “Thiên nhân hợp nhất”.
Nhóm công trình nghiên cứu về môi trường sinh thái và bảo vệ môi
trường sinh thái: Có tác giả Đoàn Văn Khiêm với công trình “Một vài suy
nghĩ về đạo đức sinh thái” Tạp chí Triết học số 2, năm 2000. Tác giả cho
rằng: Vấn đề kinh tế xã hội – môi trường sinh thái đang đặt ra cấp bách đối
với các quốc gia, đòi hỏi phải có biện pháp giải quyết, kết hợp giữa các biện

5


pháp khoa học kỹ thuật và khoa học nhân văn. Công trình “Một số nhận thức
triết học - xã hội về vấn đề môi trường sinh thái” Tạp chí Triết học số 8, năm
2000 của tác giả Phạm Văn Bông đã luận giải rằng, bảo vệ môi trường sinh
thái trở thành vấn đề cấp bách, môi trường sinh thái là sự tác động lẫn nhau
giữa yếu tố tự nhiên, con người, xã hội. Mỗi yếu tố trong một hệ thống vô
cùng phức tạp, phải kết hợp mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội nhân văn. Tác
giả Nguyễn Văn Việt trên Tạp chí Triết học số 4, năm 2004 với công trình “Di
truyền học và giá trị sinh thái”.
Về quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước về vấn đề bảo vệ môi
trường. Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa III), Nghị quyết số 41NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) đã thể hiện quan điểm, đường lối của Đảng
ta về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Về phía Nhà nước, nhiều văn bản quy phạm pháp luật cũng như
chính sách về vấn đề bảo vệ môi trường, bảo đảm cho sự phát triển kinh tế - xã
hội đã được ban hành như: Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội khóa IX
thông qua ngày 27/12/1993 và sửa đổi bổ sung năm 2005 là bộ luật khung của
Nhà nước Việt Nam về các vấn đề bảo vệ môi trường; ngoài ra còn có các văn
bản quy định dưới luật của Bộ Khoa học công nghệ - môi trường và các cơ
quan quản lý khác.
Trên đây là những công trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu và rất
đáng trân trọng. Kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực này đã góp phần tích cực


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Triết lý “Thiên nhân hợp nhất” trong triết học Trung Quốc cổ đại và
vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay.

b.

Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện và giới hạn của luận văn nên tác giả chỉ tập trung vào
nghiên cứu tư tưởng Thiên nhân hợp nhất trong triết học của một số trường
phái triết học tiêu biểu của Trung Quốc cổ đại. Đó là Nho gia, Đạo gia, Âm
dương gia, Ngũ hành gia. Đồng thời khi khảo sát thực trạng về môi trường sinh
thái ở Việt Nam, tác giả chỉ dừng lại nghiên cứu môi trường sinh thái những
năm 2000 trở lại đây.

6.

Đóng góp mới của đề tài
7


- Góp phần hệ thống hóa những luận điểm có ý nghĩa lý luận và
phương pháp luận về tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất” trong triết học Trung
Quốc cổ đại.
- Góp phần khảo sát tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái và bảo vệ
môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm bảo vệ, cải
thiện môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở vận dụng tư
tưởng Thiên nhân hợp nhất.

chia ra lịch pháp để phục vụ cho việc xác định thời vụ trong sản xuất nông
nghiệp. Nhà Thương từ khi được xây dựng cho đến khi diệt vong kéo dài
khoảng 500 năm, đến khoảng thế kỷ XI Tr. CN, con của Chu Văn Vương là
Chu Vũ Vương đã nổi dậy diệt vua Trụ nhà Ân Thương lập ra nhà Chu, đóng
đô ở Hạo Kinh, lịch sử gọi là Tây Chu.

9


Thời Tây Chu, lực lượng sản xuất xã hội đã đạt tới trình độ cao hơn
nhiều so với thời Ân – Thương. Với việc chế tạo và sử dụng các công cụ, vật
dụng bằng sắt bắt đầu xuất hiện đã thúc đẩy nông nghiệp và một số ngành thủ
công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Vào khoảng thế kỷ VI – V Tr. CN, ở Trung
Quốc đã bắt đầu xuất hiện những thành thị thương nghiệp buôn bán, xuất
nhập nhộn nhịp ở các Hàn, Tề, Tần, Sở. Trong lĩnh vực nhận thức về các
khoa học tự nhiên như: lịch pháp, thiên văn, địa lý, y học,… cũng phát triển
rất mạnh. Về chính trị, hệ thống chính trị đã tương đối hoàn thiện hơn so với
nhà Ân – Thương trước đó. Là một nhà nước được xây dựng trên cơ sở của chế
dộ chiếm hữu nô lệ, song cách thức quản lý quốc gia của nhà Chu lại theo kiểu
“phong hầu kiến địa” nặng về huyết thống , dòng tộc. Người đứng đầu nhà Chu
được gọi là “Thiên tử” có uy quyền tuyệt đối.
Về mặt triết học, dưới các triều đại Ân Thương, Tây Chu, thế giới quan
thần thoại tôn giáo, duy tâm chủ nghĩa trở thành hình thái ý thức xã hội chiếm
địa vị thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Tư tưởng thờ trời đề cao vai
trò của Thiên tử đã thành ý thức thường trực và chi phối hành vi của rất nhiều
người trong xã hội. Đối lập với những quan điểm duy tâm, tín ngưỡng tôn
giáo thống trị đã xuất hiện những tư tưởng duy vật chất phác và những quan
điểm có tính chất vô thần, tiến bộ khẳng định vị trí và tác dụng hoạt động của
con người trong xã hội cũng như trong quan hệ với tự nhiên.
Nổi bật trong tất cả các tư tưởng duy vật sơ khai thời đó là quan niệm về

Thu, nền kinh tế của Trung Quốc cổ đại đang chuyển từ giai đoạn đồ đồng
sang thời đại đồ sắt. Phát minh về kỹ thuật khai thác và sử dụng đồ sắt đã đem
lại những tiến bộ mới trong việc cải tiến công cụ và kỹ thuật sản xuất nông
nghiệp. Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, các ngành sản xuất xã hội khác như
thủ công nghiệp, thương nghiệp và buôn bán cũng khá phát triển. Sự hình
thành thương nghiệp buôn bán đã tạo ra trong thể chế xã hội một tầng lớp mới,

11


một loại quý tộc mới với thế lực ngày càng mạnh, tranh giành quyền lực với
tầng lớp quý tộc cũ.
Về chính trị xã hội, nếu như thời Tây Chu chế độ tông pháp là “phong
hầu kiến địa” vừa có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế, chính trị, huyết thống vừa
có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ được một thời gian dài hưng thịnh
thì đến thời Xuân Thu chế độ tông pháp của nhà Chu không còn được tôn
trọng, trật tự lễ nghĩa giữa thiên tử với chư hầu trở nên lỏng lẻo và có nhiều
điểm bị xáo trộn. Thiên Tử nhà Chu thấy quyền lực của mình bị thu hẹp thì
bất lực. Các nước chư hầu với các lợi thế về kinh tế và chính trị ngày càng
được mở rộng nên tìm cách mượn danh thiên tử để thôn tính, tiêu diệt lẫn
nhau với mưu đồ làm bá chủ thiên hạ. Các số liệu về sử học còn ghi lại giai
đoạn Xuân Thu chỉ trong vòng 242 năm đã xảy ra 483 cuộc chiến tranh lớn
nhỏ. Đất nước loạn lạc, các cơ cấu và tầng lớp Xã hội bị đảo lộn. Các quan hệ
giai cấp và giữa các tầng lớp khác nhau trong cùng một xã hội trở nên mâu
thuẫn gay gắt. Các cuộc chiến tranh đã làm cho một số ít người (chủ yếu trong
tầng lớp quý tộc cũ và mới) giàu lên nhanh chóng do biết trục lợi. Còn quần
chúng nhân dân lao động bị bóc lột cùng kiệt. Khoảng cách giàu nghèo trong
xã hội ngày càng gia tăng, cuối thời Xuân Thu, tình trạng kinh tế, chính trị
của xã hội trở nên hết sức rối rắm.
Bước sang giai đoạn Chiến Quốc, nền kinh tế so với thời Xuân Thu đã

Quốc.
Chính trong thời đại lịch sử biến đổi toàn diện và sâu sắc đó đã đặt ra
các vấn đề triết học, chính trị - xã hội, luân lý đạo đức, pháp luật, quân sự,
ngoại giao,… đã kích thích lòng người, khiến các bậc tài sĩ đương thời quan
tâm lý giải để tìm ra phương pháp giải quyết “cứu đời, cứu người” làm nảy
sinh một loạt các nhà tư tưởng và các học phái nổi tiếng. Các nhà tư tưởng,
các môn phải triết học trong thời kỳ này là đại diện cho lợi ích của các tầng
lớp giai cấp xã hội khác nhau, vừa kế thừa tư tưởng của nhau, vừa đấu tranh

13


với nhau rất quyết liệt. Nhiều tư tưởng trước đây chỉ mới manh nha, giờ đây
đã nhanh chóng trở thành một học thuyết có sức thuyết phục khá mạnh mẽ.
Thậm chí, nhiều tư tưởng trước đây còn phân tán, được hình thành từ cơ sở
khác nhau giờ đây lại được kết hợp lại trở thành một học thuyết thống nhất.
Các học phái triết học này đã đấu tranh quyết liệt với mục đích chỉ muốn coi
mình là học thuyết vạn năng và chiếm được địa vị độc tôn, mong muốn được
mọi tầng lớp trong xã hội chấp nhận. Sự phong phú, đa dạng đan xen và có
phần quyết liệt của các học phái triết học trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc
khiến người ta phải gọi đó là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà nhiều thầy)
hoặc có khi gọi là thời kỳ “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng” (Trăm
hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Chữ “trăm” được nói đến ở đây không phải
con số thực mà hình dung là một con số nhiều của các loại học phái, chỉ cảnh
tượng phồn vinh, các trường phái triết học đua nhau xuất hiện của các phái
Nho, Pháp, Đạo, Mặc, Danh, Âm dương, Tung hoành, Tạp gia, Nông gia v.v...
đều xuất hiện với những hệ thống tư tưởng riêng của mình.
Như vậy có thể nói, chính những điều kiện về lịch sử, kinh tế, chính trị, xã
hội đầy biến động và phức tạp của xã hội Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu – Chiến
Quốc đã làm cho các tư tưởng triết học của Trung Quốc cổ đại vốn bắt nguồn từ

được vua Lỗ mời ra làm Trung Đô Tể (quan coi ấp Trung Đô), lúc này tư
tưởng chính trị của ông được thi hành nhiều nơi. Do đó, Khổng Tử đã đem lại
cho nước Lỗ cảnh thanh bình, ban đêm ngủ không đóng cửa, ban ngày ra
đường không ai nhặt của rơi, luân thường đạo lý được coi trọng. Sau đó vua
nước Lỗ say sưa trong cảnh thanh bình mà đam mê tửu sắc, bỏ bê việc triều
chính làm cho Khổng Tử chán nản, bỏ sang nước Vệ, nước Vệ không trọng
dụng, ông bỏ sang nước Trần rồi lại về nước Vệ. Sau 14 năm bôn ba cùng học
trò mong có người sử dụng học thuyết của mình, song ông đã thất vọng. Trở
lại nước Vệ sống khoảng 5-6 năm ông mới thấy bất lực việc làm chính trị,
nên trở về nước Lỗ dạy học và san định lại các kinh sách đời trước. Ông mất

15


vào năm 479 TCN ở quê nhà, vào đời Lỗ Ai Công năm 16, Chu Kính Vương
năm 41, thọ khoảng 72 tuổi.
Khổng Tử san định sách Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc của đời trước để lại,
viết sách Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình. Sau khi Khổng Tử mất
sách của ông không còn giữ được bao nhiêu, sau này khi đạo Nho được phục
hưng sách Nhạc chỉ còn một thiên, được đem nhập vào bộ Lễ ký gọi là thiên
Nhạc ký. Những sách khác được người đương thời sưu tầm, bổ sung tạo thành
ngũ kinh là Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
Triết học của Khổng Tử được lý giải khác nhau qua các thời kỳ. Đến thế
kỷ thứ II Tr. CN, những quan điểm triết học của Khổng Tử được danh nho nhà
Hán là Đổng Trọng Thư thần bí hóa và biến nó thành một hệ thống đạo đức, tôn
giáo, chính trị thống trị trong đời sống tinh thần Trung Quốc lúc bấy giờ.
Với Khổng Tử, Triết học của ông hướng về những vấn đề chính trị, xã
hội và đạo đức con người, trong đó phải kể đến một tư tưởng tiêu biểu đó là
tư tưởng Thiên nhân hợp nhất.
Trong triết học của trường phái Nho gia quan niệm Thiên nhân hợp nhất

niệm Thiên nhân hợp nhất, mà đối với ông, giữa trời và người còn có sự
tương cảm, tương dữ lẫn nhau (Thiên nhân cảm ứng). Theo đó, uy thế của
người là hết sức mạnh mẽ, linh ứng, trời có thể gieo tai vạ để trừng phạt con
người nhưng trời cũng có thể cảm thông với con người. Đồng thời, con
người có thể bằng lòng thành và hành vi của mình để giao tiếp với trời, làm
cho trời xúc động mà cảm thông với con người. Theo Đổng Trọng Thư, mọi
sự vận động ở thế giới cõi người, xét đến cùng đều là sự cảm ứng, mô
phỏng, tương thông với thế giới cõi trời mà thôi.
Thiên nhân hợp nhất được biết đến với tư cách là một mệnh đề trung
tâm biểu thị quan hệ giữa con người với tự nhiên trong Nho học truyền thống
Trung Quốc. Nó nhấn mạnh sự thống nhất hài hòa giữa con người với tự
nhiên, bởi theo các Nho gia thì trời và người mỗi thứ là một vũ trụ, không có
sự phân biệt nào giữa hai thực thể ấy, nếu có khác nhau thì chỉ là sự khác

17


nhau về mặt quy mô lớn nhỏ. Sự tương ứng giữa con người với trời đất cũng
đã được lý giải thông qua những minh chứng thực tiễn, chẳng hạn như trong
Hoàng Đế nội kinh các tác giả đã kế thừa và khái quát lại như sau: “Trời và
người mỗi thứ là một vũ trụ, không có sự phân biệt đây đó, chỉ khác nhau ở
quy mô lớn và nhỏ. Do trời có hình tròn, đất có hình vuông; nên con người
đầu thì hình tròn mà bàn chân lại mang hình vuông. Trời có mặt trời, mặt
trăng, các vì sao và gió mưa sấm chớp, nên con người cũng có tai, mắt, mũi,
mồm và thất tình lục dục. Trên đất có chín châu lục, nên con người cũng có
chín khiếu. Một vòng tròn chia làm 360 độ, nên con người cũng có 360 đốt
xương. Trung Quốc có mười hai sông lớn mà cơ thể cũng có 12 kinh mạch
chính”. [49, tr. 40]
Tư tưởng thiên nhân hợp nhất trong Nho giáo nguyên thủy được hiểu là
sự hòa hợp giữa trời với người; theo đó, trời với người cùng một gốc, cùng

nhiên, thành một bộ phận của ngang hàng với thiên, địa, nhưng xét về thuộc
tính bản chất của con người nó vẫn giữ được quan hệ hài hòa vốn có giữa
thiên và địa.
Thứ hai, khẳng định sự hoàn toàn khác biệt giữa thiên và nhân, khẳng
định tính chủ thể của con người, Chu Dịch đi đến tiền đề cơ bản về sự hài hòa
giữa thiên và nhân. Tuy nhiên, con người là sản vật của thiên địa, là một bộ
phận của giới tự nhiên, nhưng con người và trời đất cuối cùng cũng khác biệt.
Chu dịch cho rằng sự khác biệt chính ở con người là chủ thể nhận thức, mà
trời là khách thể nhận thức; con người là chủ thể nhận thức vì nó có ý thức,
mà trời là khách thể nhận thức vì không có ý thức.
Thứ ba, giới tự nhiên có quy luật khách quan, hoạt động của con người
cũng có quy luật khách quan, con người cần nhận thức và tuân theo quy luật
khách quan, đây là quan điểm trung tâm của tư tưởng thiên nhân hợp nhất. Sự
vận động của trời đất là có quy luật, từ trước tới nay trái quy luật sẽ vận động
hỗn loạn, ngày lên đêm xuống, đán mộ hồi sóc, bốn mùa thay đổi, trật tự
không thay đổi, không sai khác, điều này gọi là trời đất vận động thuận. Mọi

19


hoạt động của xã hội loài người cũng có quy luật nhất định, thuận theo quy
luật mà gặp hình phạt mọi người dân đều phục, chính trị thông, nhân tâm hòa;
Trái lại, làm trái quy luật, thì chính trị hôn ám, dân phản loạn, nước không ra
nước. Hoạt động của con người và trời đất đều có quy luật nhất định, nhưng
giữa chúng có chỗ tương thông, tương đồng nào không? Quẻ Di, Thoán
truyện, Chu Dịch trả lời: trời đất nuôi dưỡng vạn vật, thánh nhân nuôi dưỡng
người hiền và vạn dân; trời đất cảm mà vạn vật hóa sinh, thánh nhân cảm
nhân tâm mà thiên hạ hòa bình. Hoặc quẻ hàm, thoán truyện: xem xét cái sự
cảm ấy thì có thể nhìn thấy cái tình của thiên địa vạn vật. Rất nhiều lập luận
có thể đưa ra để thuyết minh trời có quy luật của trời, người có quy luật của

tạo trời, cũng không cho rằng việc của người do trời quyết định mà không nên
phát huy tính chủ động của con người.
Như vậy, trong Nho giáo, tư tưởng Thiên nhân hợp nhất được thể hiện
với những nội dung ở trên. Nội dung đó có những giá trị tích cực và những
hạn chế như thế nào? Vấn đề này sẽ được luận văn lý giải ở phần sau.
1.2.1. Tư tưởng thiên nhân hợp nhất trong Đạo giáo.
Lão Tử là một nhân vật chính yếu trong Triết học Trung Quốc, sự tồn
tại của ông trong lịch sử hiện vẫn đang còn được tranh cãi. Theo truyền thuyết
Trung Quốc, ông sống ở thế kỷ VI TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông
sống ở thế kỷ IV TCN, thời Bách gia chư tử và thời Chiến Quốc. Lão Tử được
coi là người viết Đạo Đức Kinh - cuốn sách của Đạo giáo có ảnh hưởng lớn,
và ông được công nhận là Khai tổ của Đạo giáo (Đạo tổ). Mặc dù triết lý của
ông chủ trương vô thần nhưng về sau này bị biến đổi thành một tôn giáo phù
phiếm, thờ cúng tiên thần, luyện thuật trường sinh, những người theo tôn giáo
này tôn ông làm Thái Thượng Lão Quân với rất nhiều phép thuật.
Người ta biết được rất ít về cuộc đời Lão Tử. Sự hiện diện của ông trong
lịch sử cũng như việc ông viết cuốn Đạo Đức Kinh đang bị tranh cãi rất nhiều.
Lão Tử đã trở thành một anh hùng văn hóa quan trọng đối với các thế hệ người
Trung Quốc tiếp sau. Truyền thuyết cho rằng ông sinh ra ở huyện Khổ nước Sở ,

21


hiện nay là Lộc Ấp thuộc tỉnh Hà Nam, trong những năm cuối thời Xuân Thu.
Một số truyền thuyết nói rằng khi sinh ra tóc ông đã bạc trắng, vì ông đã nằm
trong bụng mẹ 8 hay 80 năm, điều này giải thích cho cái tên của ông, có thể
được dịch thành “bậc thầy già cả” và “đứa trẻ già”. Lão Tử dị tướng ngay từ khi
mới sinh ra.
Theo truyền thống, và một tiểu sử gồm cả trong cuốn sử của Tư Mã
Thiên, Lão Tử là người cùng thời nhưng lớn tuổi hơn Khổng Tử và làm quan

vận hành, diễn biến theo quy luật riêng, theo bản năng của chúng chứ không
can thiệp vào “ Đạo sinh ra vạn vật, vật chất khiến cho mỗi vật thành hình,
hoàn cảnh hoàn thành mỗi vật… đạo và đức không can thiệp, chi phối vạn vật
mà để vật tự nhiên phát triển”[33, tr 57].
Đạo sở dĩ không can thiệp vào đời sống của vạn vật vì nó không có
nhân cách, không có ý chí, không chủ quan. Bốn mùa cứ thay đổi nhau mà
vận hành, vạn vật cứ theo bản năng mà tự thích nghi với hoàn cảnh: cá tự mọc
ra vây, chim tự mọc ra cánh, con nòng nọc khi lên ở cạn thì tự đứt đuôi mà
mang biến thành phổi; con tằm tự làm cái kén để sau đục cái kén ra mà thành
con bướm; loài vật nào cũng đói thì tìm ăn, no rồi thì thôi, lúc nào mệt thì
nghỉ … điều đó ai cũng thấy. Đạo vô tri vô giác, cố nhiên là không can thiệp
vào đời sống vạn vật rồi nhưng loài người hữu tri hữu giác lại hay can thiệp
vào, mà can thiệp vào thì rất tai hại: chẳng hạn như con nòng nọc còn nhỏ mà
chặt đuôi nó thì nó sẽ chết; con tằm mới làm cái kén nhốt mình trong đó mà ta
đục cái kén giải thoát cho nó thì nó sẽ chết mà không thành bướm; nhất là loài
người can thiệp vào đời sống của nhau gây ra chiến tranh loạn lạc.
Khi bàn về “vô vi” tư tưởng thiên nhân hợp nhất được bộc lộ rõ. Thực
chất “vô vi” là là một học thuyết triết học – đạo đức của người Trung hoa cổ
đại, được Lão Tử nâng lên thành học thuyết về nghệ thuật sống của con người
trong sự hòa nhập với tự nhiên.
“Vô vi” có thể dịch theo nghĩa đen là “không làm gì”. Nhưng theo Lão
Tử cũng như cách hiểu của người Trung hoa cổ đại, danh từ “vô vi” không có
nghĩa là không có sự hoạt động gì cả, mà là hoạt động một cách tự nhiên,

23


không làm trái với quy luật tự nhiên, không can thiệp vào guồng máy tự
nhiên, không hoạt động có tính giả tạo gò ép, không thái quá bất cập. Lão Tử
viết: “Đạo thường không làm gì mà không gì không làm. Vua chúa nếu giữ

làm điều ác: “Nước nào chính sự lờ mờ thì dân thuần thục, nước nào chính sự
rành rọt thì dân lao đao” và “pháp luật càng tăng, trộm cướp càng nhiều” [33,
chương 57]. Còn cái gọi là nhân, lễ, nghĩa, trí theo Lão Tử tất cả chỉ là giả
tạo, trái với tự nhiên, xa rời mất đạo trời mà thôi. Ông phê phán những quan
điểm và chủ trương hữu vi của Nho giáo và cho rằng: “Mất đạo rồi mới có
đức, mất đức rồi mới có nhân, mất nhân rồi mới có lễ. Lễ chỉ là cái vỏ mỏng
của lòng trung tín, mà cũng là đầu mối của sự loạn…” [33, chương 38]. Ông
còn nói: “ Đạo lớn mất mới có nhân, nghĩa. Trí tuệ sinh mới có dối trá. Lục
thân chẳng hòa mới có hiếu từ. Quốc gia rối loạn mới có bề tôi trung” [33,
chương 18]. Thậm chí sống theo đạo “vô vi” của Lão Tử ngay đến chính bản
thân mình cũng không nên quý nó và lo lắng cho nó. Có thân mà coi như
chẳng có, cứ tự nhiên thanh thản thì chẳng có gì phải lo cả. Lão Tử viết: “
Người ta lo lắng chỉ vì cái thân, vì trọng cái thân của mình quá nên không còn
cái thân thì còn lo gì nữa” [33, chương 35].
“Vô vi” còn có nghĩa bảo vệ, giữ gìn bản tính tự nhiên của mình, của
vật. Cho nên Lão Tử nói: Ta có ba của báu hằng nắm giữ bảo vệ: một là lòng
từ ái, hai là tiết kiệm và ba là không dám đứng trước thiên hạ” [33, chương
67]. Vì ái nên không cưỡng ép vật, vì tiết kiệm cho nên không thái quá, không
trái với đạo tự nhiên và không dám đứng trước thiên hạ cho nên tự nhiên,
thuần phác không áp chế nhau, không ai lấy, không ai bỏ, không ai hơn,
không ai kém. Lão Tử nói: “Thánh nhân thường khéo cứu người nên không
có người bỏ đi, thường khéo cứu vật nên không có vật bỏ đi” [33, chương 44].
“Cho nên thánh nhân bỏ nhiều, bỏ thừa, bỏ quá”[33, chương 29].
Như thế, theo Lão Tử đạt tới “vô vi” có thể làm cho con người ta tuyệt
vời. Họ luôn hòa mình vào khoảng không nhưng vẫn biết dành cho người
khác một chỗ mà không làm mất chỗ của mình. Họ biết giảm ánh sáng của
mình để trầm vào bóng tối của kẻ khác. Họ ngập ngừng như kẻ phải lội qua
25



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status