Hiệu quả hoạt động và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại việt nam - Pdf 52

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH

VÕ THỊ TUYẾT TRINH

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH

VÕ THỊ TUYẾT TRINH

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


Mục lục
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ...........................................................................1
1.1. Bối cảnh nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài: ..............................................1
1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu .........................................................................2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................3
1.5. Những đóng góp của đề tài ................................................................................3
1.6. Kết cấu của đề tài ...............................................................................................3
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC
NGHIỆM VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ...4
2.1 Cơ sở lý thuyết về hiệu quả hoạt động của ngân hàng ......................................4
2.1.1 Khái niệm hiệu quả của ngân hàng thương mại .............................................4
2.1.2 Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại ..5
2.1.2.1 Phương pháp đánh giá truyền thống: ...........................................................5
2.1.2.2 Phương pháp phân tích hiệu quả biên: cách tiếp cận tham số (SFA) và phi
tham số (DEA) .........................................................................................................9
2.2 Các nghiên cứu về hiệu quả hoạt động và các yếu tố tác động đến hiệu quả
hoạt động của NHTM ................................................................................................10
Chương 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU ..................................17
3.1 Dữ liệu nghiên cứu ...........................................................................................17
3.2 Phương pháp nghiên cứu .................................................................................17
3.2.1 Đo lường hiệu quả hoạt động bằng DEA ...................................................17
3.2.2 Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM
Việt Nam bằng hồi quy Tobit ................................................................................23
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..................................29
4.1 Khái quát chung về tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam....................................................................................................................29
4.2 Phân tích thực nghiệm các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các
NHTM Việt Nam .......................................................................................................35
4.2.1 Đo lường hiệu quả hoạt động bằng DEA ...................................................35


DMU

Đơn vị ra quyết định

EE

Hiệu quả kinh tế tổng hợp

EFCH

Thay đổi hiệu quả kỹ thuật

FOREIGN

Sở hữu nước ngoài

GDPGR

Tốc độ tăng trưởng GDP thực

GOVERNMENT Sở hữu nhà nước
M&A

Mua bán và sáp nhập

NHTM

Ngân hàng thương mại


Thay đổi công nghệ

TFPCH

Thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp

VRS

Hiệu quả thay đổi theo quy mô


Danh mục bảng
Bảng 4.1: Mô tả thống kê các biến mô hình DEA ........................................... 35
Bảng 4.2 Hiệu quả kỹ thuật (TE) và hiệu quả kỹ thuật thuần (PE) của toàn bộ
mẫu và các nhóm ngân hàng thuộc các loại hình sở hữu khác nhau. .............. 36
Bảng 4.3: Hiệu quả chi phí thay đổi theo quy mô ........................................... 37
Bảng 4.4: Hiệu quả kỹ thuật không đổi theo quy mô, hiệu quả kỹ thuật thay
đổi theo quy mô và hiệu quả quy mô. .............................................................. 38
Bảng 4.5. Chỉ số Malmquist bình quân thời kỳ 2011-2016 ............................. 39
Bảng 4.6: Mô tả thống kê các yếu tố mô hình Tobit. ...................................... 42
Bảng 4.7. Kết quả ước lượng mô hình Tobit phân tích các yếu tố tác động đến
hiệu quả hoạt động của các NHTM ở Việt Nam ............................................. 42


Danh mục hình
Hình 3.1. Đường giới hạn khả năng sản xuất ứng với hai hàng hóa H1 và H2
trường hợp tối đa hóa đầu ra. .......................................................................... 18
Hình 3.2: Đường PPF trong trường hợp tối thiểu hóa đầu vào. ..................... 18
Hình 3.3. Hiệu quả không đổi/thay đổi theo quy mô....................................... 19
Hình 3.4. Chỉ số Malmquist TFP đầu ra .......................................................... 21

hàng Việt Nam phát triển nhanh chóng và bền vững, từng bước cạnh tranh và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các
NHTM, trong thời gian qua đã có một số tác giả trong nước quan tâm nghiên cứu về
vấn đề này. Nghiên cứu của Lê Hoàng Nga (2007) chỉ dừng lại ở phân tích định tính,
nghiên cứu định lượng của Võ Thành Danh và Liễu Thu Trúc (2012) chưa đề cập đến
các nhân tố tác động nào đến hiệu quả hoạt động và thời gian nghiên cứu khá ngắn từ
2006 – 2009. Nguyễn Quang Khải (2016) sử dụng phương pháp phân tích bao dữ liệu
(DEA) đánh giá hoạt động của các NHTM Việt Nam, tuy nhiên tác giả chưa đo lường
1


cụ thể mức độ hiệu quả và các nhân tố nào ảnh hưởng đến mức độ hiệu quả. Phân tích
các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam trong thời
kỳ hội nhập tài chính quốc tế của Trần Huy Hoàng và Nguyễn Hữu Huân (2016) chưa
đánh giá hiệu quả của việc mua bán và sáp nhập (M&A) lên hiệu quả hoạt động. Do
đó luận văn này đo lường cụ thể mức độ hiệu quả và các nhân tố nào ảnh hưởng đến
mức độ hiệu quả có xem xét đến tác động của M&A và tác động phi tuyến của quy
mô.
Qua phân tích ở trên có thể nói, hiện nay việc xem xét một cách tổng thể về hiệu
quả hoạt động hiện tại và xác định những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của các NHTM ở Việt Nam là quan trọng và có giá trị cho các nhà hoạch định chính
sách, nhà quản trị ngân hàng và nhà đầu tư trong việc ra quyết định nhằm nâng cao
hiệu quả kinh tế, hiệu quả đầu tư. Xuất phát từ những đòi hỏi mang tính khoa học và
thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hiệu quả hoạt động và các nhân tố ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động của các NHTM tại Việt Nam’’ làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
-


cổ phần và 2 ngân hàng liên doanh trong giai đoạn nghiên cứu là 6 năm từ năm 2011
đến năm 2016.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để phù hợp với nội dung, yêu cầu và mục đích mà luận văn đề ra, luận văn sử dụng
phương pháp phân tích định lượng gồm phương pháp DEA và mô hình Tobit để đánh
giá hiệu quả hoạt động và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của
NHTM tại Việt Nam.
Dữ liệu của luận văn được thu thập thông qua báo cáo của NHNN và báo cáo
thường niên của 28 NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-2016.
1.5. Những đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần bổ sung bằng chứng thực nghiệm về hiệu quả hoạt động và các yếu
tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu
có chọn lọc một số quan điểm cơ bản của các tác giả trên thế giới qua các công trình
nghiên cứu thực nghiệm. Điểm mới và khác biệt của luận văn này so với các nghiên
cứu trước ở Việt Nam là có xem xét đến yếu tố M&A và tác động phi tuyến của quy
mô đến hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài chỉ ra những yếu tố nào thật sự tác động đến hiệu
quả hoạt động ngân hàng của các NHTM Việt Nam, mức độ tác động của các yếu tố
đó, từ đó giúp các nhà quản trị ngân hàng đề ra các chính sách, chiến lược nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động tại các NHTM Việt Nam.
1.6. Kết cấu của đề tài
Chương 1. Giới thiệu đề tài
Chương 2. Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả hoạt động
của ngân hàng
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
Chương 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 5. Kết luận và hàm ý chính sách
3



hiếm các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện không thể
không đặt ra đối với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào.
4


Hai tác giả Whohe và Doring lại đưa ra hai khái niệm về hiệu quả kinh tế. Đó là
hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị giá trị.
Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau. “Mối quan hệ tỷ lệ giữa sản
lượng tính theo đơn vị hiện vật (chiếc, kg...) và lượng các nhân tố đầu vào (giờ lao
động, đơn vị thiết bị, nguyên vật liệu...) được gọi là tính hiệu quả có tính chất kỹ thuật
hay hiện vật”, “Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh doanh phải chỉ ra trong điều kiện
thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế phải chi ra được gọi là tính hiệu quả xét về
mặt giá trị” và “Để xác định tính hiệu quả về mặt giá trị người ta còn hình thành tỷ lệ
giữa sản lượng tính bằng tiền và các nhân tố đầu vào tính bằng tiền”. Khái niệm hiệu
quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật của hai ông chính là năng suất lao động, máy
móc thiết bị và hiệu suất tiêu hao vật tư, còn hiệu quả tính bằng giá trị là hiệu quả của
hoạt động quản trị chi phí.
Quan điểm về hiệu quả là đa dạng, tùy theo mục đích nghiên cứu có thể xét hiệu
quả theo những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, xuất phát từ những hạn chế về thời
gian và nguồn số liệu, do vậy quan điểm về hiệu quả mà luận văn sử dụng để đánh giá
hiệu quả hoạt động của các NHTM là dựa trên tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế,
thể hiện là khả năng biến các đầu vào thành các đầu ra trong hoạt động kinh doanh của
NHTM.
2.1.2 Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại
2.1.2.1 Phương pháp đánh giá truyền thống:
a, Các chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời: Các chỉ tiêu quan trọng nhất đo lường
khả năng sinh lời của ngân hàng được sử dụng hiện nay gồm tỷ lệ thu nhập trên vốn
chủ sở hữu (ROE), tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA), tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
(NIM), tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NOM), tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên

những giao dịch đặc biệt (NRST), tỷ lệ tài sản sinh lời, tỷ lệ sinh lời hoạt động (NPM),
tỷ lệ hiệu quả sư dụng tài sản (AU)… Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh, các nhà
quản lý có thể vận dụng trong những trường hợp riêng cho phù hợp.
b, Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro: Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro (rủi ro tín dụng, rủi ro
thanh khoản, rủi ro lãi suất…) bổ sung cho các chỉ tiêu phản ánh sinh lời nhằm phản
ánh đầy đủ kết quả kinh doanh của ngân hàng trong một thời kỳ như:
-

Nợ có vấn đề/Dư nợ

-

Nợ quá hạn/Dư nợ

-

Nợ quá hạn /Vốn chủ sở hữu

-

Ngân quỹ/Nguồn ngắn hạn

-

Tài sản nhạy cảm/Nguồn vốn nhạy cảm

-

Nợ/Vốn chủ sở hữu
6

Cơ cấu vốn đầu tư: Một trong các chỉ tiêu khi xem xét và đánh giá chất lượng tín
dụng của các NHTM là chỉ tiêu cơ cấu vốn đầu tư. Việc phân tích cơ cấu vốn đầu tư
chính là việc xem xét đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng của
bản thân ngân hàng cũng như đòi hỏi về vốn của nền kinh tế chưa. Trên cơ sở đó, các
7


NHTM có thể quyết định quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để
vừa bảo đảm an toàn vốn cho vay vừa có thể thu lợi nhuận cao nhất.
Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay: Nếu xét về bản chất tín dụng, thì
nguồn trả nợ cho ngân hàng của người vay về nguyên tắc là được trích ra từ phần thu
nhập do hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Tuy vậy, có nhiều trường hợp
do sử dụng vốn kém hiệu quả, bị mất vốn (sản xuất kinh doanh thua lỗ, phá sản...) nên
người vay phải bán tài sản (có thể tự nguyện hoặc bắt buộc) để trả nợ ngân hàng. Số
tiền bán tài sản có thể đủ để trả nợ, nhưng cũng có thể chỉ trả được một phần nợ vay,
song trong trường hợp nào thì vẫn có thể đánh giá là chất lượng tín dụng thấp.
Vòng quay vốn tín dụng: đây là một chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán
hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng
trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giải quyết hợp lý giữa ba lợi ích: Nhà
nước, khách hàng và ngân hàng. Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín
dụng (thường là một năm). Hệ số này càng tăng phản ánh tình hình tổ chức quản lý
vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao.
Phân loại tài sản Có: Trong thực tế, việc xem xét phân loại tài sản Có thường được
các NHTM rất chú ý quan tâm. Tài sản Có của ngân hàng là kết quả của việc sử dụng
vốn của ngân hàng đó, những tài sản Có đem lại thu nhập, tức là tài sản thu được lãi,
giúp cho ngân hàng tạo lợi nhuận. Mục đích của việc quản lý tài sản Có của ngân hàng
là nhằm để làm cực đại lợi nhuận của mình, một ngân hàng phải tìm kiếm những lợi
tức cao nhất có thể có của vốn cho vay và của chứng khoán. Đồng thời giảm đến tối
thiểu rủi ro và chuẩn bị đầy đủ cho trạng thái thanh khoản bằng cách nắm giữ các tài
sản “lỏng”.

hưởng ngược chiều đến các chỉ số hiệu quả. Cách tiếp cận này đòi hỏi người sử dụng
phải có kiến thức nhất định về toán học.
Mặc dù phương pháp tham số được sử dụng phổ biến, nhưng các phương pháp phi
tham số cũng đang được sử dụng ngày càng nhiều khi chúng ta không xác định được
dạng hàm sản xuất. Điểm nổi bật của phương pháp tiếp cận phi tham số (DEA) là
không đòi hỏi phải xác định dạng hàm cụ thể đối với đường biên hiệu quả, các thành
phần bóc tách từ phần dư của ước lượng không nhất thiết phải tuân theo một phân phối
thống kê nào, cũng như các ràng buộc về phân phối của các nhân tố phi hiệu quả trong
số liệu như cách tiếp cận tham số, trừ ràng buộc các chỉ số hiệu quả phải nằm giữa 0
và 1, và giả sử không có sai số ngẫu nhiên hoặc sai số phép đo trong số liệu. Đường
giới hạn biên sản xuất được xây dựng trực tiếp từ dữ liệu quan sát thông qua hệ thống
phương trình tuyến tính vì thế có thể ứng dụng trong những nghiên cứu với số lượng
quan sát hạn chế. Hơn nữa, ước lượng biên sản xuất dựa trên kết quả hiện có sẽ cho
9


một đường biên gần với thực tế hơn. Có thể sử dụng trong trường hợp nhiều sản phẩm
đầu ra và nhiều yếu tố đầu vào. Có thể sử dụng để ước lượng riêng biệt các loại hiệu
quả sản xuất như hiệu quả kỹ thuật thuần, hiệu quả qui mô và hiệu quả phân bổ. Tuy
nhiên, phương pháp DEA cũng có những hạn chế của nó. Thứ nhất, kết quả ước lượng
(cho phần phi hiệu quả) hoàn toàn phụ thuộc vào đặc điểm thống kê của các quan sát.
Vì vậy, kiểm định thống kê không thể áp dụng được trong phương pháp này. Thứ hai,
như đã được Sengupta (2002) nêu ra, DEA chỉ xem xét phía cung mà không xem xét
phía cầu và những đặc trưng của thị trường. Cuối cùng là độ nhạy, Timmer (1971) lập
luận rằng DEA rất nhạy cảm với các quan sát cực trị. Tức là khi một doanh nghiệp
(hoặc một ngành) hoạt động hiệu quả hơn nhiều so với những doanh nghiệp khác,
DEA có thể ước lượng quá cao phần phi hiệu quả của nó. Dù có những hạn chế đó,
DEA đang ngày càng được sử dụng rộng rãi.
2.2 Các nghiên cứu về hiệu quả hoạt động và các yếu tố tác động đến hiệu quả
hoạt động của NHTM

nguyên, vật liệu) và năm yếu tố đầu ra (số lượng tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và có
kỳ hạn, số lượng các khoản cho vay bất động sản, vay trả góp và vay công nghiệp).
Theo phương pháp DEA thì phi hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng khoảng 21,6%,
còn theo phương pháp SFA thì phi hiệu quả kỹ thuật là 16,04%. Nghiên cứu này cũng
cho thấy các ngân hàng nhỏ với tổng tài sản dưới 25 triệu USD là những ngân hàng
hoạt động hiệu quả nhất.
Fukuyama (1993) áp dụng phương pháp DEA để ước tính hiệu quả 143 NHTM ở
Nhật bản vào năm 1991. Sử dụng ba đầu vào (lao động, vốn, quỹ từ khách hàng) và
hai đầu ra (thu từ cho vay, và thu từ các hoạt động khác). Fukuyama kết luận nguyên
nhân chính của phi hiệu quả kỹ thuật tổng thể là do phi hiệu quả kỹ thuật thuần.
Grabowski và cộng sự (1994) xem xét hiệu quả của một nhóm 670 ngân hàng trong
năm 1979, 1983 và 1987. Sử dụng ba yếu tố đầu vào (lao động, vốn và vốn vay) và
năm yếu tố đầu ra (các khoản vay thương mại và công nghiệp, tiêu dùng, bất động sản;
chứng khoán; và tiền gửi không kỳ hạn), kết luận rằng kỹ thuật thuần là nguyên nhân
chính của phi hiệu quả kỹ thuật. Các ngân hàng có tiền gửi vượt quá 1 tỷ USD có hiệu
quả kỹ thuật cao nhất.
Miller và Noulas (1996) ứng dụng phương pháp DEA để ước tính hiệu quả của 201
ngân hàng lớn của Mỹ trong giai đoạn 1984-1990 phát hiện, thứ nhất, phi hiệu quả
trung bình của 201 ngân hàng khá nhỏ, chỉ khoảng 5%. Thứ hai, những ngân hàng quá
lớn rơi vào vùng giảm hiệu quả theo quy mô. Thứ ba, những ngân hàng lớn hơn và lợi
nhuận nhiều hơn có phi hiệu quả kỹ thuật thuần thấp hơn.
Leightner và Lovell (1998) áp dụng chỉ số Malmquist để đánh giá những thay đổi
trong tổng năng suất của các ngân hàng Thái Lan trong giai đoạn 1989-1994. Theo
11


phát hiện của họ, đầu tiên, khi hiệu quả hoạt động ngân hàng được đo lường bằng hiệu
quả sản xuất, các ngân hàng lớn Thái Lan có xu hướng chiếm ưu thế. Thứ hai, khi hiệu
quả hoạt động ngân hàng được đo trong điều kiện tăng trưởng thực hiện tốt nhất, các
ngân hàng nhỏ nước ngoài chiếm ưu thế. Thứ ba, với bất cứ tiêu chuẩn đánh giá nào,


Chang-Sheng Liao (2009) ước lượng hiệu quả và sự thay đổi hiệu quả của các ngân
hàng Đài Loan giai đoạn 2002 - 2004 bằng phương pháp DEA. Tác giả sử dụng biến
đầu vào bao gồm chi phí hoạt động, chi phí trả lãi và biến đầu ra bao gồm dư nợ, thu
nhập lãi và đầu tư. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu suất thay đổi theo quy mô của
các ngân hàng trong nước có xu hướng giảm. Các ngân hàng nước ngoài, tuy không
hiệu quả hơn các ngân hàng nội địa nhưng sự tăng trưởng hiệu quả của họ tốt hơn các
ngân hàng nội địa. Bài nghiên cứu cũng hàm ý rằng, các ngân hàng kém hiệu quả có
thể sử dụng công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
Barth và cộng sự (2010) nghiên cứu 4.050 ngân hàng trên 72 quốc qua giai đoạn
1999-2007, sử dụng phương pháp DEA với bốn đầu vào (tổng tiền gửi và quỹ khác,
chi phí nhân công, tài sản cố định, dự phòng rủi ro) và ba đầu ra (tổng dư nợ, lãi từ đầu
tư chứng khoán, thu nhập ngoài lãi). Kết quả thu được hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng ở quốc gia phát triển cao hơn ở quốc gia thu nhập trung bình và quốc gia
kém phát triển, sở hữu nhà nước làm giảm hiệu quả hoạt động, những ngân hàng lớn
hơn có hiệu quả hoạt động cao hơn, Basel II không có tác động làm tăng hiệu quả và
sự minh bạch của thị trường tài chính có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của
ngân hàng.
Lee và Kim (2013) dùng chỉ số Malmquist phân tích về hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng Hàn Quốc từ 2003-2009. Kết quả cho thấy cơ cấu sở hữu là một yếu tố
quyết định quan trọng của hiệu quả hoạt động ngân hàng tại Hàn Quốc. Các ngân hàng
thuộc sở hữu nhà nước tụt hậu rõ ràng so với các ngân hàng thuộc sở hữu tư nhân
trong việc thúc đẩy hiệu quả tạo ra lợi nhuận. Đồng thời tìm thấy hiệu quả hoạt động
của các ngân hàng rất nhạy cảm với chu kỳ kinh doanh.
Gwahula Raphael (2013) đã sử dụng phương pháp DEA để đánh giá hiệu quả hoạt
động của các NHTM tại Tan ania trong giai đoạn 2005-2011. Tác giả lựa chọn các
biến đầu vào bao gồm: lao động, khấu hao, chi phí hoạt động, chi phí tài chính; biến
đầu ra là dư nợ và giá trị của các khoản đầu tư. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả
chung của các ngân hàng ở mức thấp, chỉ đạt 53,2%, con số này khá thấp khi so sánh
với trung bình các ngân hàng trên thế giới. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, ở nhóm

hoạt động kinh doanh chung là lớn hơn so với hiệu quả quy mô. Tuy nhiên chưa đề
cập đến các nhân tố tác động nào đến hiệu quả hoạt động và thời gian nghiên cứu
tương đối ngắn.
Xây dựng mô hình DEA đánh giá hoạt động của các NHTM Việt Nam của Nguyễn
Quang Khải (2016), mẫu nghiên cứu gồm 20 NHTM trong nước cung cấp bằng chứng
chứng minh tính hiệu quả của phương pháp DEA trong nghiên cứu các NHTM tại Việt
Nam nhưng chưa đo lường cụ thể mức độ hiệu quả và các nhân tố nào ảnh hưởng đến
mức độ hiệu quả.
14


Phân tích các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập tài chính quốc tế của Trần Huy Hoàng và Nguyễn Hữu
Huân (2016), nghiên cứu về các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của hệ thống
NHTM Việt Nam trong thời kỳ hội nhập 2005 - 2011 theo phương pháp SFA. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, hiệu quả hoạt động của các NHTM chịu ảnh hưởng bởi hai nhóm
nhân tố chính. Trong đó các nhân tố chủ quan tác động bao gồm: thị phần, rủi ro thanh
khoản, tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài và quy mô của ngân hàng. Các nhân tố
khách quan bao gồm: tổng thu nhập quốc nội và lạm phát của nền kinh tế. Các nhân tố
tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của các NHTM bao gồm: tỷ lệ nắm giữ của
nhà đầu tư nước ngoài, quy mô ngân hàng và thị phần của ngân hàng.
Trần Phương Thảo và Lê Nguyễn Quỳnh Hương (2016) nghiên cứu về mối quan
hệ giữa loại hình sở hữu và hiệu quả hoạt động của các NHTM tại Việt Nam. Theo đó
tác giả sử dụng phương pháp DEA và SFA trong việc đo lường hiệu quả hoạt động
NHTM và hồi quy Tobit 2 bước để tìm hiểu mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động và
loại hình sở hữu NHTM. Kết quả nghiên cứu về 22 NHTM tại Việt Nam trong giai
đoạn 2007-2014 phù hợp với lý thuyết về quản trị ngân hàng và minh chứng loại hình
sở hữu khác nhau có ảnh hưởng đến hiệu suất hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh đó,
nghiên cứu kiểm định giả thuyết “lợi thế sân nhà” và “lợi thế nước ngoài” nhưng
không tìm thấy bằng chứng về sự tồn tại các giả thuyết này trong lĩnh vực ngân hàng

giúp xác định những yếu tố nào thật sự tác động đến hiệu quả hoạt động ngân hàng của
các NHTM Việt Nam, mức độ tác động của các yếu tố đó. Từ đó giúp các nhà quản trị
ngân hàng đề ra các chính sách, chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại các
NHTM Việt Nam.

16


Chương 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU
3.1 Dữ liệu nghiên cứu
Tác giả sử dụng hai nguồn để tập hợp dữ liệu. Số liệu tài chính và thông tin ngân
hàng lấy từ báo cáo tài chính hợp nhất đã kiểm toán công bố của các NHTM, tốc độ
tăng trưởng GDP thực được lấy từ dữ liệu IMF.
Mẫu được dùng trong bài nghiên cứu là các NHTM tại Việt Nam, chuỗi dữ liệu từ
năm 2011-2016. Tác giả loại bỏ các ngân hàng không có sẵn thông tin trong giai đoạn
nghiên cứu. Cuối cùng, tác giả thu được một bảng gồm 28 NHTM, trong đó bao gồm 3
NHTM nhà nước, 23 NHTM cổ phần và 2 ngân hàng liên doanh.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Đo lường hiệu quả hoạt động bằng DEA
Dựa theo Lee và Kim (2013), nghiên cứu xác định một tập hợp bốn yếu tố đầu vào
bao gồm chi phí lãi, chi phí hoạt động dịch vụ, chi phí hoạt động và chi phí dự phòng
rủi ro. Và hai đầu ra là thu nhập lãi và thu nhập hoạt động dịch vụ. Thước đo chỉ số
Malmquist tập trung vào khả năng điều hành trong NHTM.
Như vậy, đối với ước lượng đường biên hiệu quả, nghiên cứu sử dụng phương
pháp DEA với thước đo chỉ số Malmquist. Trong phương pháp DEA, đường biên hiệu
quả được ước tính bằng phương pháp lập trình tuyến tính phi tham số. Để tính toán các
chỉ số, nghiên cứu sử dụng phiên bản DEAP 2.1 (Coelli, 1996).
Phương pháp phân tích đường bao dữ liệu dùng để xây dựng đường giới hạn sản
xuất, được đề xuất đầu tiên bởi Farrell (1957). Farrell (1957) đưa ra ý tưởng đường
giới hạn khả năng sản xuất (PPF) để đánh giá hiệu quả tương đối giữa các công ty


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status