Thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em vùng dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình (Luận văn thạc sĩ) - Pdf 51

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN MINH ĐỨC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ
ĐỐI VỚI TRẺ EM VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, Năm 2018

1


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN MINH ĐỨC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ
ĐỐI VỚI TRẺ EM VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỈNH QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

Cũng như các tỉnh, thành phố trong cả nước, Quảng Bình đang đối mặt với
việc giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có việc chăm sóc hỗ trợ trẻ em ở vùng dân
tộc thiểu số đang được đặc biệt chú trọng, xem đây là một phần giúp nâng cao chất
lượng cuộc sống của các huyện vùng núi cao và toàn tỉnh nói chung. Tỉnh Quảng
Bình có hai dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ lớn: dân tộc Bru-Vân Kiều và dân tộc Chứt,
với 5.607 hộ, 24.499 nhân khẩu, chiếm khoảng 2,3% dân số của tỉnh. Dân tộc Bru Vân Kiều gồm 4 nhóm: Vân Kiều, Khùa, Ma Coong, Trì. Dân tộc Chứt gồm 5 nhóm:
3


Sách, Mày, Rục, A Rem, Mã Liềng. Các dân tộc thiểu số còn lại với số dân không
nhiều như: Thổ, Mường, Tày, Thái, Pa cô... Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng
Bình sinh sống chủ yếu ở các xã vùng sâu, biên giới, nơi có điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội hết sức khó khăn [39]. Năm 2017, theo điều tra, khảo sát của Ban Dân tộc
tỉnh, các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số về tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống thì
có 68 cặp tảo hôn trong số 308 cặp kết hôn tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
chiếm 26,30%, tăng 5,89%. Một số xã có tỷ lệ tảo hôn cao như Thượng Hoá (Minh
Hóa) chiếm 41,18%, Kim Thuỷ (Lệ Thủy) chiếm 77,42% [21].
Trong những năm gần đây, nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch phát triển
giữa vùng DTTS, miền núi và các vùng khác trong tỉnh, UBND tỉnh Quảng Bình đã
ban hành Quyết định số 3310/QĐ-UBND về việc phê duyệt đề án Chính sách đặc thù
hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng DTTS và miền núi tỉnh Quảng Bình giai đoạn
2017-2020. Ban dân tộc tỉnh Quảng Bình cũng đưa ra đề án 498 “Giảm thiểu tình
trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 20152025”. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Lương Cương (trưởng phòng Tuyên Truyền và
Địa Bàn, Ban dân tộc tỉnh Quảng Bình) thì tình trạng tảo hôn ở vùng dân tộc thiểu số
vẫn còn tồn tại, đến năm 2016 trên địa bàn tỉnh vẫn còn trẻ 13 tuổi bị ép tảo hôn [7].
Qua đó có thể thấy hiện nay trên địa bàn tỉnh chưa có một đề án hay chính sách bảo
trợ riêng biệt, hoàn thiện cho đối tượng là trẻ em thuộc vùng dân tộc thiểu số. Các
chính sách đưa ra chỉ là lồng ghép, thiếu toàn diện nên chưa giải quyết được các vấn
đề về giáo dục, y tế hay nạn tảo hôn cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số thuộc tỉnh
Quảng Bình.

(ILO-IPEC) của Tổ chức Lao động Quốc tế. Tác phẩm đã góp phần cho việc thực
hiện mục tiêu toàn cầu hóa về xóa bỏ các hình thực lao động ở trẻ em theo chương
trình hành động quốc gia năm 2016 thông qua việc cung cấp dữ liệu về lao động trẻ
em.
Bài tham luận “Vấn đề chăm sóc, bảo vệ trẻ em tại thành phố Hồ Chí Minh”
của Mai Thị Quế trong Hội thảo khoa học: Chất lượng cuộc sống của người dân
thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh kinh tế hiện nay (2012) do Viện Nghiên cứu
Phát triển thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đã đề cập đến thực trạng chăm sóc, bảo vệ
trẻ em tại thành phố Hồ Chí Minh đã được thể hiện rõ, đồng thời tác giả cũng chỉ ra
nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến những tồn tại còn mắc phải. Bên cạnh
đó, tác giả đã đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách bảo
5


vệ, chăm sóc trẻ em của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung.
- Tác giả Lê Thị Oanh trong bài viết chuyên đề “Một số giải pháp cho trẻ lang
thang trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh” đã mạnh dạn đưa ra nhận định: trẻ em lang thang
chính là sản phẩm của nền kinh tế thị trường, là một thực tế khách quan của xã hội
hiện đại ngày nay.Tình trạng này khiến các em không đáp ứng đầy đủ những nhu cầu
thiết yếu, gây ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình hình thành nhân cách và phát triển toàn
diện của trẻ. Chính vì vậy, trẻ em chính là đối tượng cần nhận được sự quan tâm,
chăm sóc thường xuyên từ gia đình, nhà trường và xã hội. Giải quyết vấn đề trẻ em
lang thang chính là bảo đảm quyền được chăm sóc cơ bản của trẻ. Mặt khác, đây còn
là hình thức bổ sung cơ sở lí luận trong việc quản lí xã hội về trẻ em và giúp ổn định
tình hình xã hội, góp phần phát triển đất nước. Giải quyết vấn đề trẻ em lang thang
chính là bảo đảm quyền được chăm sóc cơ bản của trẻ. Mặt khác, đây còn là hình
thức bổ sung cơ sở lí luận trong việc quản lí xã hội về trẻ em và giúp ổn định tình
hình xã hội, góp phần phát triển đất nước. Giải quyết vấn đề trẻ em lang thang là việc
bảo đảm quyền được chăm sóc giúp đỡ đặc biệt của trẻ. Mặt khác còn góp phần ổn
định tình hình kinh tế xã hội đất nước, và nhằm bổ sung cơ sở lí luận trong việc quản

Bên cạnh đó còn có một số bài viết nghiên cứu trên tạp chí chuyên ngành như:
“Thành công và bất cập trong thực hiện chính sách bảo trợ xã hội thường xuyên
(2012)” của tác giả Nguyễn Đức Chiện; “Những bước tiến quan trọng trong công tác
bảo trợ xã hội (2014)”, “Định hướng đổi mới chính sách bảo trợ xã hội trong thời
gian tới (2015)” của Nguyễn Văn Hồi. Nhìn chung các bài viết đã chỉ ra được những
thành quả nổi bật của công tác xã hội và chị ra được định hướng cho tương lai.
Nhưng các tác phẩm chưa đi sâu hay lấy bảo trợ trẻ em làm đối tượng nghiên cứu
chính.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên, về phần lí luận chỉ mới đề cập
đến lý luận đến an sinh xã hội, trợ giúp thường xuyên tại cộng đồng, những định
hướng giải quyết các vấn đề an sinh xã hội trong xu thế toàn cầu hóa, định hướng về
điều chỉnh chính sách bảo trợ xã hội, chưa đề cập đến quá trình tổ chức thực hiện
chính sách bảo trợ xã hội, kết quả đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp thường
xuyên chỉ mới thực hiện ở thời điểm năm 2010 trở về trước.
Trực tiếp bàn về thực trạng đời sống và chính sách bảo trợ đối với trẻ em vùng
dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình, có thể kể đến những công trình sau:
- Thanh Hà (2017), Quảng Bình cải thiện, nâng cao điều kiện sống cho đồng
7


bào dân tộc thiểu số và miền núi, đã cho thấy một bức tranh sáng về đời sống của
người dân vùng cao, trong đó có người dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình. Đáng chú
ý, bài viết đã chỉ ra được tính tích cực, chủ động của chính quyền địa phương trong
việc triển khai, thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
- Nguyễn Lương Cương (2018), Kết quả điều tra tình trạng tảo hôn và hôn
nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc thiểu số ở xã Thượng Trạch, một số
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Thông qua những số liệu điều tra đáng tin cậy, bài báo đã nêu lên thực trạng đáng
buồn về tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết của đồng bào dân tộc thiểu sốở các
bản Cà Roòng I, Cà Roòng II, Bản Nịu, bản Ban, bản Khe Rung, bản Bụt, bản 51 và

UNICEF trong báo cáo “Tình hình trẻ em tại Việt Nam năm 2010” nhận định
rằng:“Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng
trong việc thúc đẩy các hoạt động chăm sóc dựa vào cộng đồng cho trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt. Việt Nam đã đưa vào thực thi các chính sách quốc gia nhằm khuyến
khích và hỗ trợ các gia đình” [75, tr.214].
Vào năm 2015, UNICEF thực hiện “Báo cáo tình hình trẻ em thế giới năm
2015” tại Việt Nam. Sau khi thực hiện chương trình với chủ đề “Hình dung mới về
tương lai: Đổi mới sáng tạo cho mọi trẻ em” Việt Nam đạt được một số tựu trong
công tác bảo đảm các quyền của trẻ em, nhất là việc nâng cao chất lượng sống của
trẻ. Đồng thời, báo cáo cũng kêu gọi cộng đồng chung tay đưa ra những ý tưởng, giải
pháp để xóa bỏ dứt điểm các vấn đề nổi bật mà trẻ em đang gặp phải. Đồng thời, báo
cáo cũng kêu gọi cộng đồng chung tay đưa ra những ý tưởng, giải pháp để xóa bỏ dứt
điểm các vấn đề nổi bật mà trẻ em đang gặp phải.Báo cáo cũng kêu gọi cộng đồng
cùng chung tay đưa ra những ý tưởng mới, các giải pháp mới để đối phó với các vấn
đề nổi cộm mà trẻ em đang phải đối mặt.
Ngày 22/4, tại Hà Nội, Ủy ban Dân tộc phối hợp với Tổ chức UNICEF tại
Việt Nam tổ chức Hội thảo: “Đề xuất giải pháp, chính sách hỗ trợ chăm sóc trẻ em
dân tộc thiểu số từ 0-5 tuổi”. Ủy ban Dân tộc đã trình Chính phủ Nghị quyết:“ Đẩy
mạnh phát triển nguồn nhân lực các DTTS giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng đến
năm 2030”, nhằm phát triển thể lực, trí lực, nâng cao ý thức xã hội và kỹ năng sống
cho trẻ em dân tộc thiểu số - nguồn nhân lực tương lai của vùng dân tộc thiểu số và
miền núi. Ủy ban Dân tộc nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng chăm sóc
trẻ em giai đoạn đầu đời từ 0-5 tuổi, đây là giai đoạn đặc biệt quan trọng, không chỉ
9


phát triển thể lực mà còn phát triển trí tuệ, sự sáng tạo trong mỗi con người. Vì vậy,
Hội thảo lần này nhằm đánh giá toàn diện các chính sách về chăm sóc, bảo vệ trẻ em
cũng như rà soát các chính sách đã thực hiện và đề xuất giải pháp chăm sóc, hỗ trợ
trẻ em trong thời gian tới [17]. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có một chính sách bảo

thiểu số.
Như vậy, hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng Bình vẫn chưa có một chính sách
bảo trợ trẻ em một cách toàn diện và lấy bảo trợ trẻ em làm đối tượng nghiên cứu
chính. Có chăng chỉ là một vài lĩnh vực như tảo hôn mà trẻ em là những nạn nhân
chính, còn các vấn đề về giáo dục, phát triển toàn diện cho trẻ thì hầu như chưa có.
Nhằm đi sâu vào chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở địa
phương Quảng Bình, tiếp nối cơ sở thì các đề tài đi trước và tổng hợp, hệ thống
chính sách của nhà nước đối với vấn đề bảo trợ trẻ em đặc biệt là trẻ vùng dân tộc
thiểu số Quảng Bình. Đề tài “Chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số
Quảng Bình”hi vọng sẽ xóa dần khoảng cách chênh lệch về chất lượng sống của trẻ
em dân tộc thiểu số với trẻ em thành phố, góp phần giải quyết những vấn đề còn tồn
tại trong việc thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em dân tộc thiểu số và góp phần phát
triển đời sống người dân nơi đây, tạo tiền đề cho sự phát triển của địa phương trong
tương lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng thực hiện chính sách bảo trợ trẻ
em đối với dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Bình, đề xuất các biện pháp nhằm thực hiện
chính sách bảo trợ trẻ em vùng dân tộc thiểu số một cách hiệu quả nhất.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc
thiểu số.
- Tìm hiểu, phân tích đánh giá về thực trạng quản lý nhà nước trong thực hiện
chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình.
- Đưa ra một số chính sách, mô hình tổ chức nhằm tạo điều kiện để trẻ em dân
tộc thiểu số cũng được hưởng các quyền lợi một cách công bằng. Đồng thời, đề xuất,
kiến nghị, giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả trong việc đề ra và thực hiện
chính sách bảo trợ cho em đối với dân tộc thiểu số phù hợp với tình hình tỉnh Quảng
Bình.
11

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên
12


cứu chính được sử dụng là phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp thảo luận
nhóm, phương pháp phỏng vấn sâu và phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia.
a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Tổng hợp, phân tích các số liệu từ các báo cáo cơ sở, ấn phẩm, tài liệu, luận
văn... có liên quan đến vấn đề Chính sách công trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ
em, đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Bình để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
- Nghiên cứu các hồ sơ lưu trữ tại Ban dân tộc tỉnh Quảng Bình nhằm nghiên
cứu các chính sách dành cho đồng bào thiểu số nói chung và trẻ em nói riêng mà tỉnh,
huyện đã thực hiện nhằm nghiên cứu và đánh giá thực trạng chính sách bảo trợ trẻ
em đối với dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình
b) Phương pháp thảo luận nhóm
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành thảo luận nhóm lần lượt với
các thành phần tham gia là: cán bộ chính sách huyện; trẻ em dân tộc thiểu số; các cặp
vợ chồng dân tộc thiểu số. Trong buổi thảo luận về chính sách bảo trợ trẻ em đối với
dân tộc thiểu số tại tỉnh Quảng Bình, dựa vào thành phần tham gia mà tôi đưa ra
hướng thảo luận phù hợp để lấy được thông tin đa chiều, khách quan về: việc thực
hiện chính sách bảo trợ; nhu cầu mà trẻ mong muốn và tác động của chính sách với
trẻ; vai trò của phụ huynh, gia đình trong việc thực hiện chính sách. Sau khi nhận
được các ý kiến đa chiều, tôi tiến hành phân tích tổng hợp. Phương pháp này giúp
quá trình nghiên cứu diễn ra khách quan, có góc nhìn đa chiều và giúp nhìn nhận,
đánh giá đối tượng một cách toàn diện.
c) Phương pháp phỏng vấn sâu
Đồng bào dân tộc thiểu số phân bố chủ yếu ở các xã vùng cao của 5 huyện Bố
Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa, Lệ Thủy, Quảng Ninh. Dựa vào đặc điểm địa bàn,
trong quá trình nghiên cứu tôi tiến hành phỏng vấn sâu cho 3 nhóm đối tượng: (1)

phương thức thực hiện phù hợp với đối tượng trẻ vùng dân tộc thiểu số.
- Phỏng vấn ý kiến chuyên gia dân tộc học để nắm rõ phong tục tập quán dân
tộc thiểu số trên địa bàn Quảng Bình để đưa ra các chính sách phù hợp vừa đảm
bảo quyền trẻ em vừa không gây tác động tiêu cực đến truyền thống văn hóa của
người dân.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

14


Hệ thống hóa cơ sở lý luận quản lý nhà nước về chính sách bảo trợ trẻ em
người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; trên cơ sở đó phân tích, đánh
giá làm rõ hơn hệ thống quản lý nhà nước về hành chính công đối với vấn đề này để
hoàn thiện khuôn khổ luật pháp, chính sách, cơ chế, giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác hành chính công từ cấp trung ương đến cấp cơ sở.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu chỉ ra thực tiễn quản lý chính sách bảo trợ trẻ em đối với
dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, giúp nâng cao nhận thức của các nhà
quản lý, cán bộ cơ sở trực tiếp làm việc tại địa bàn với trẻ em vùng dân tộc thiểu số
về vai trò của chính sách bảo trợ trẻ em.
Tác giả hi vọng, những phát hiện mới của để tài nghiên cứu sẽ làm cơ sở khoa
học cho các nhà quản lý trong việc đề ra cơ chế chính sách phù hợp với và xây dựng
các chương trình chiến lược bảo vệ trẻ em đối với dân tộc thiểu số.
Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo thiết thực cho các nhà nghiên cứu,
quản lý chính sách công xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách về vấn
đề bảo trợ trẻ em dân tộc thiểu số. Đây cũng là tài liệu mang tính thực tế cao cho sinh
viển, nghiên cứu sinh ngành chính sách công tham khảo phục vụ cho việc học tập,
nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn

thuộc địa, hàng loạt các nước bị tàn phá có nhu cầu cơ cấu lại nhà nước của mình,
các thể chế quốc tế mới cũng được thiết lập đã dẫn đến sự ra đời của một cách tiếp
cận mới về công bằng, bình đẳng, về việc tìm kiếm các giá trị và biện pháp phát triển
kinh tế - xã hội. Bối cảnh đặc biệt này làm nảy sinh một số cách tiếp cận mới về khoa
học chính sách. Một số cách tiếp cận tập trung vào các hành vi ứng xử ở cấp vi mô,
vào khía cạnh tâm lý của quần chúng, của các cử tri và nhà lãnh đạo; một số khác lại
tập trung vào những đặc điểm văn hoá, xã hội và một số lại tập trung vào bản chất
dân tộc và tính toàn cầu... Chính các cách tiếp cận theo hướng đổi mới trên đây đã
tạo ra cơ sở nền tảng cho sự ra đời của khoa học chính sách.
Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng hay các tài liệu công thì
“chính sách” được nhắc tới rất nhiều, đây là thuật ngữ được của ngành chính sách
công. Đây được xem là một trong những thuật ngữ khó, không dễ để có thể định
nghĩa chính xác, đầy đủ các ý hay khía cạnh liên quan. Năm 1972, Thomas Dye đã
định nghĩa một cách ngắn gọn về chính sách công như sau: “Chính sách công là bất
kỳ những gì nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm” [78, tr.4]. Đây là một định
17


nghĩa này khá súc tích, nhưng chưa có hiểu biết sâu sắc về chính sách công. Định
nghĩa chưa đưa ra được quy ước hệ thống những hoạt động được gọi là chính sách
nhằm phân biệt với các hoạt động cử nhà nước.Đây là một định nghĩa này khá súc
tích, nhưng chưa có hiểu biết sâu sắc về chính sách công. Định nghĩa chưa đưa ra
được quy ước hệ thống những hoạt động được gọi là chính sách nhằm phân biệt với
các hoạt động cử nhà nước. Tuy nhiên, định nghĩa này cũng đã chỉ ra những dấu hiệu
nhận biết nhất định về chính sách công. Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công
là nhà nước.Điều này có nghĩa là các quyết định của các doanh nhân, các tổ chức từ
thiện, các nhóm lợi ích, các cá nhân trong xã hội không phải là chính sách công. Khi
nói về chính sách công thì phải hiểu rằng đó là các hành động của nhà nước. Cho dù
trong thực tế, các hoạt động của các chủ thể phi nhà nước có thể hoặc chắc chắn ảnh
hưởng đến những gì nhà nước làm, nhưng bản thân những quyết định hoặc các hoạt

cách khái quát hơn. Ông định nghĩa như sau: “Chính sách công là đường lối hành
động có mục đích được ban hành bởi một hoặc một tập hợp các nhà hoạt động chính
trị để giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề cần quan tâm” [78, tr.6]. Định
nghĩa này bổ sung thêm hai thành tố cho các định nghĩa của W. Jenkins và T.Dye.
Thứ nhất, định nghĩa này đã chỉ ra rằng các quyết định chính sách thường được ban
hành bởi một tập thể các nhà hoạt động chính trị, thay vì một nhóm hoặc một nhà
hoạt động duy nhất trong bộ máy nhà nước. Thông thường các chính sách là kết quả
không chỉ của nhiều quyết định của một chủ thể, mà còn là kết quả của nhiều quyết
định được ban hành bởi các chủ thể ở những cấp và bộ phận khác nhau trong bộ máy
nhà nước. Thứ hai, định nghĩa này cũng làm sáng tỏ mối liên hệ giữa hành động của
nhà nước và sự nhận thức, mối quan tâm của các chủ thể khác trong xã hội về sự tồn
tại một vấn đề phát sinh hoặc đòi hỏi phải được giải quyết.
Đến năm 1990, B. Guy Peters lại đưa ra định nghĩa mới: “Chính sách công là
toàn bộ các hoạt động của nhà nưóc có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp
đến cuộc sống của mọi người dân” [78, tr.6]. Quan niệm này của B. Guy Peters đã
bổ sung thêm tác động của chính sách công đến đời sống của mọi người dân hay
cộng đồng xã hội, đây được xem là một phần quan trọng của chính sách công. Hiểu
một cách đơn giản, chính sách công nhằm giải quyết những vấn đề công và quá trình
thực hiện sẽ ảnh hưởng đến một vài cá nhân, tổ chức trong xã hội. Điều này cũng
đưa ra gợi ý về tiêu chuẩn đánh giá chính sách công là tác động có mang tính xã hội
hay không.
19


Trong cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam, chính sách được giải thích như sau:
“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách
được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó.
Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của
đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa...” [35, tr.475]. Theo định nghĩa này,
ta có thể thấy mục đích của chính sách công là đưa ra định hướng, lộ trình cụ thể để

hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2005 thì: “trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”
[5, tr.7]. Đồng thời, bộ luật cũng đưa ra các quyền cụ thể mà trẻ em được hưởng,
trong đó có các quyền cơ bản sau:
- Quyền sống: Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt
nhất các điều kiện sống và phát triển.
- Quyền được khai sinh và có quốc tịch: Trẻ em có quyền được khai sinh, khai
tử, có họ, tên, có quốc tịch; được xác định cha, mẹ, dân tộc, giới tính theo quy định
của pháp luật.
- Quyền được chăm sóc sức khỏe: Trẻ em có quyền được chăm sóc tốt nhất về
sức khỏe, được ưu tiên tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa bệnh.
- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng: Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi
dưỡng để phát triển toàn diện.
- Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu: Trẻ em có quyền
được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản
thân.Trẻ em được bình đẳng về cơ hội học tập và giáo dục; được phát triển tài năng,
năng khiếu, sáng tạo, phát minh.
- Quyền vui chơi, giải trí: Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí;được bình đẳng
về cơ hội tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù
hợp với độ tuổi.
- Quyền giữ gìn, phát huy bản sắc: Trẻ em có quyền được tôn trọng đặc điểm
và giá trị riêng của bản thân phù hợp với độ tuổi và văn hóa dân tộc; được thừa nhận
các quan hệ gia đình.Trẻ em có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc, phát
huy truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc mình.
- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: Trẻ em có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào và phải được bảo đảm an toàn, vì lợi ích
tốt nhất của trẻ em.
- Quyền về tài sản: Trẻ em có quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối
21



22


được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc làm tổn hại đến
sự phát triển toàn diện của trẻ em.
- Quyền được bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt:
Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị mua bán, bắt cóc,
đánh tráo, chiếm đoạt.
- Quyền được bảo vệ khỏi chất ma túy: Trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi mọi
hình thức sử dụng, sản xuất, vận chuyển, mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính: Trẻ em có
quyền được bảo vệ trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm
quyền được bào chữa và tự bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; được
trợ giúp pháp lý, được trình bày ý kiến, không bị tước quyền tự do trái pháp luật;
không bị tra tấn, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân
thể, gây áp lực về tâm lý và các hình thức xâm hại khác.
- Quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung
đột vũ trang: Trẻ em có quyền được ưu tiên bảo vệ, trợ giúp dưới mọi hình thức để
thoát khỏi tác động của thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang.
- Quyền được bảo đảm an sinh xã hội: Trẻ em là công dân Việt Nam được bảo
đảm an sinh xã hội theo quy định của pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
nơi trẻ em sinh sống và điều kiện của cha, mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em.
- Quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội: Trẻ em có
quyền được tiếp cận thông tin đầy đủ, kịp thời, phù hợp; có quyền tìm kiếm, thu nhận
các thông tin dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật và được tham gia hoạt
động xã hội phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành, nhu cầu, năng lực của trẻ em.
- Quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp: Trẻ em có quyền được bày tỏ ý kiến,
nguyện vọng về các vấn đề liên quan đến trẻ em; được tự do hội họp theo quy định
của pháp luật phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành và sự phát triển của trẻ em;
được cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân lắng nghe, tiếp thu, phản hồi

khả năng, sức khỏe, độ tuổi của mình.
Tôn trọng quyền, danh dự, nhân phẩm của người khác; chấp hành quy định về
an toàn giao thông và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ, giữ gìn, sử dụng tài sản, tài
nguyên, bảo vệ môi trường phù hợp với khả năng và độ tuổi của trẻ em.
Phát hiện, thông tin, thông báo, tố giác hành vi vi phạm pháp luật.
- Bổn phận của trẻ em đối với quê hương, đất nước:
24


Yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào, có ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; tôn trọng truyền thống lịch sử dân tộc; giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong
tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của quê hương, đất nước.
Tuân thủ và chấp hành pháp luật; đoàn kết, hợp tác, giao lưu với bạn bè, trẻ
em quốc tế phù hợp với độ tuổi và từng giai đoạn phát triển của trẻ em.
- Bổn phận của trẻ em với bản thân:
Có trách nhiệm với bản thân; không hủy hoại thân thể, danh dự, nhân phẩm,
tài sản của bản thân.
Sống trung thực, khiêm tốn; giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể.
Chăm chỉ học tập, không tự ý bỏ học, không rời bỏ gia đình sống lang thang.
Không đánh bạc; không mua, bán, sử dụng rượu, bia, thuốc lá và chất gây
nghiện, chất kích thích khác.
Không sử dụng, trao đổi sản phẩm có nội dung kích động bạo lực, đồi trụy;
không sử dụng đồ chơi hoặc chơi trò chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh của bản
thân.
Bảo vệ trẻ em là bảo đảm cho trẻ em được hưởng đầy đủ các quyền lợi, đồng thời
thực bổn phận ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm quyền, bổn phận của trẻ em theo
quy định của pháp luật.
Thông qua những lý luận về “chính sách công” và “bảo vệ trẻ em” tác giả đưa
ra định nghĩa về chính sách bảo vệ trẻ em như sau: “Chính sách bảo vệ trẻ em là tập
hợp các quyết định có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status