Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam - Pdf 48

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Võ Thị Xuyến


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Số hiệu
bảng
Bảng 1.1

Tên bảng

Trang

Bảng tổng hợp chiều hướng tác động của các nhân tố ảnh

32

hưởng đến hiệu quả hoạt động ngân hàng thương mại dưới


Bảng 2.1
B ảng 2.2
Bảng 3.1
Bảng 3.2

động ngân hàng
Mối quan hệ giữa khả năng tự chủ tài chính và hiệu quả
hoạt động của các ngân hàng
Mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả hoạt động ngân
hàng
Mối quan hệ giữa tỷ lệ chi phí ngoài lãi/tổng tài sản và
hiệu quả hoạt động của các NHTMCP
Mã hóa biến quan sát
Ma trận hệ số tương quan
Kết quả hồi quy theo mô hình với ảnh hưởng cố định
Kết quả hồi quy theo mô hình với ảnh hưởng ngẫu nhiên
Kết quả kiểm định Hausman

43

46
51
55
56
57
62
63
64
65
66
67
69
70
71
71


Tính cấp thiết của đề tài
Hiệu quả hoạt động luôn là cái đích để các doanh nghiệp hướng đến
trong quá trình hoạt động. Làm thế nào để đạt được một đầu ra cao nhất với
một nguồn đầu vào sẵn có hay làm thế nào để tối thiểu hóa đầu vào để đạt một
đầu ra như dự định luôn là bài toán đòi hỏi các doanh nghiệp đi tìm lời giải
đáp. Và nhìn chung, cái đích mà các doanh nghiệp hướng tới trong các bài
toán hiệu quả vẫn là lợi nhuận, tỷ lệ lợi nhuận sẽ là bao nhiêu trên tổng tài sản
hay vốn chủ sở hữu đã bỏ ra để làm hài lòng nhà quản trị và nhà đầu tư. Bài
toán hiệu quả sẽ dễ dàng giải quyết hơn nếu không xét tới các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình hoạt động của doanh nghiệp, nhưng điều đó là không thể
khi mà bản thân các doanh nghiệp luôn phải vận động trong cả hai môi trường
bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Và với mỗi lĩnh vực hoạt động, các
doanh nghiệp lại chịu tác động bởi những yếu tố khác nhau.
Ngân hàng là một trong những lĩnh vực kinh doanh chịu tác động của rất
nhiều yếu tố, cả bên trong lẫn bên ngoài ngân hàng. Bởi một lẽ hiển nhiên, hệ
thống ngân hàng vốn được xem như là hệ tuần hoàn của toàn bộ nền kinh tế,
nó tác động đến mọi mặt của nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng
không tránh khỏi thực tế đó, khi mà nó đang đứng trước sự cạnh tranh khốc
liệt với các ngân hàng thương mại trong khu vực cũng như trên thế giới. Bên
cạnh đó, thị trường chứng khoán Việt Nam đang còn khá non trẻ, hệ thống tài
chính chưa thực sự lành mạnh, thông thoáng đã gây khó khăn, cản trở cho
hoạt động ngân hàng.Vì vậy, việc đi tìm hiểu và nghiên cứu để chỉ ra đâu là
những yếu tố có tác động đến lợi nhuận và rộng hơn là hiệu quả hoạt động
ngân hàng là thật sự cần thiết. Điều đó sẽ góp phần giúp các nhà quản lý ngân
hàng đi tìm lời giải cho bài toán hiệu quả thuận lợi hơn.
Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động ngân
hàng đã được tiến hành rất nhiều ở các nước. Các tác giả đã đưa ra giả thiết và




của các ngân hàng thương mại.
Ứng dụng mô hình nhằm nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên thị trường chứng

3.

khoán Việt Nam.
Đề xuất một số hàm ý chính sách để nâng cao hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu trên, đề tài đặt ra một số câu hỏi nghiên cứu
sau:


9
-

Có thể sử dụng mô hình nào để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả

-

hoạt động của các ngân hàng thương mại?
Các nhân tố nào ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả
hoạt động của các ngân hàng thương mại niêm yết trên thị trường chứng

-

khoán Việt Nam?
Các ngân hàng thương mại và các chủ thể liên quan nên lưu ý đến những vấn

Ngân hàng TMCP Quân đội (MBB)
Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB)
Ngân hàng TMCP Quốc dân (NVB)
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID)
Sở dĩ lựa chọn 9 NHTMCP niêm yết tại Việt Nam là đối tượng nghiên
cứu, thứ nhất vì đây là 9 ngân hàng thương mại đi đầu trong xu hướng cổ
phần hóa hiện nay, hội tụ đầy đủ những đặc điểm về vốn, về năng lực quản lý,


10
sản phẩm, dịch vụ…Thứ hai, việc đánh giá được hiệu quả hoạt động và tìm ra
các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của 9 ngân hàng này sẽ giúp
nền kinh tế có được cái nhìn khái quát về những mặt đã làm được, chưa làm
được, sự tác động đa chiều của các yếu tố bên trong và bên ngoài đến hoạt
5.
-

động của các ngân hàng, từ đó đưa ra những hướng đi đúng đắn hơn.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp định lượng, bằng cách dựa vào những lý
thuyết đã được xây dựng trước đó, tập trung nghiên cứu, phát triển thành cơ

6.
-

sở lý luận phù hợp với nội dung đề tài.
Bên cạnh đó sử dụng phần mềm định lượng để đạt được mục tiêu nghiên cứu.
Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh theo thời gian.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học

động của các ngân hàng thương mại
Chương 4: Các kết luận và hàm ý chính sách rút ra từ kết quả nghiên cứu.
CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC NGHIỆM VỀ CÁC NHÂN
TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.
1.1.1.

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Khái niệm
Hiệu quả là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực đời sống,
kinh tế, kỹ thuật…Theo ý nghĩa chung nhất, hiệu quả là lợi ích đạt được từ
một hoạt động cụ thể. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, định nghĩa được
hiểu và sử dụng theo phạm trù kinh tế học.
Theo Ngô Đình Giao (1997) hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
biểu hiện mối quan hệ tương quan giữa kết quả thu được và toàn bộ chi phí
bỏ ra để có kết quả đó, phản ánh chất lượng của hoạt động kinh tế đó.
Theo Trương Bá Thanh và Trần Đình Khôi Nguyên (2001) thì hiệu quả
hoạt động công ty được xem xét trong mối quan hệ giữa đầu ra là kết quả của
doanh nghiệp (doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm…) với
đầu vào là nguồn lực sử dụng (tài sản, vốn chủ sở hữu, nguồn nhân lực…)
Chỉ tiêu chung về hiệu quả cơ bản được tính như sau:
Trong đó “Đầu ra” bao gồm các chỉ tiêu liên quan đến giá trị sản xuất,
doanh thu, lợi nhuận. “Đầu vào” thường bao gồm các yếu tố như vốn chủ sở
hữu, các loại tài sản…


12

tăng trưởng, sinh lời, kiểm soát rủi ro. Các mục tiêu này vừa có tương quan


13
vừa độc lập với nhau, vì vậy các nội dung đánh giá trên phải vừa được xem
xét trong tổng thể, vừa được xem xét một cách độc lập.
- Đánh giá khả năng tăng trưởng của ngân hàng
Đánh giá khả năng tăng trưởng của ngân hàng được tiến hành theo các
nội dung chủ yếu sau:
+ Các chỉ tiêu tăng trưởng tài sản như: tăng trưởng tổng tài sản, tăng
trưởng tài sản sinh lời, tăng trưởng tài sản chịu rủi ro thông thường, tăng
trưởng dư nợ tín dụng.
+ Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng nguồn vốn như: tăng trưởng huy
động vốn, tăng trưởng huy động tiền gửi, tăng trưởng vốn chủ sở hữu, tăng
trưởng vốn tự có.
+ Các chỉ tiêu tăng trưởng hoạt động ngoại bảng như: tăng trưởng doanh
số cung ứng dịch vụ ngoại bảng, tăng trưởng doanh thu cung ứng các dịch vụ
ngoại bảng.
+ Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng năng lực hoạt động như: tăng trưởng
tài sản cố định, tăng trưởng số lượng nhân viên, tăng trưởng tài sản công nghệ
cao, tăng trưởng số chi nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch…
+ Tăng trưởng năng lực chiếm lĩnh thị trường như: thị phần cho vay, tỷ
trọng tài sản, tỷ trọng tài sản sinh lời, thị phần huy động vốn…
Tăng trưởng là một trong những mục tiêu của quản trị ngân hàng. Mức
độ tăng trưởng thể hiện năng lực cơ bản về mở rộng quy mô hoạt động, phát
triển và nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường. Đánh giá mức độ tăng
trưởng còn cho phép phát hiện các xu hướng, dự báo triển vọng phát triển
ngân hàng. Thông thường, việc đánh giá mức độ tăng trưởng được thể hiện
qua hai tiêu chí so sánh theo thời gian là:
+ Chỉ tiêu tốc độ phát triển theo thời gian.

+ Tỷ lệ thu nhập hoạt động ròng cận biên (NOM):
Chỉ tiêu này phản ánh chênh lệch giữa tổng thu từ tất cả các hoạt động và
tổng chi phí (chỉ trừ thuế).


15
+ Lợi nhuận ròng trước những giao dịch đặc biệt (NRST):
Chỉ tiêu này thực chất là ROA nhưng loại trừ kết quả tài chính từ những
hoạt động không ổn định hoặc không phải hoạt động cốt lõi của ngân hàng
như lãi (lỗ) kinh doanh chứng khoán và các khoản thu, chi bất thường.
+ Lợi nhuận ròng trên một cổ phần:
Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 cổ phần thường tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận trong kỳ.
+ Chênh lệch lãi suất bình quân:
Chỉ tiêu này cũng phản ánh mức chênh lệch lãi suất đầu ra và đầu vào
nhưng do mẫu số chỉ tính trên các tài sản sinh lời hoặc các khoản nợ tương
ứng với thu nhập lãi suất hoặc chi phí lãi nên gần sát với chênh lệch lãi suất
thực tế hơn.
Ngoài ra, trong giáo trình còn đề cập đến việc phân tích ROA theo mô
hình hai, ba nhân tố và phân tích ROE theo mô hình hai, ba, bốn nhân tố để
xem xét sự ảnh hưởng của các nhân tố đến mục tiêu sinh lời của ngân hàng.
- Đánh giá rủi ro ngân hàng
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là khả năng mà một tiến trình hoặc
một sự kiện nào đó gây ra một kết cục không mong đợi lên tình hình tài chính
của ngân hảng hoặc cản trở ngân hàng thực hiện các mục tiêu đã định.
Mức độ rủi ro hiện tại của ngân hàng được đánh giá và xem xét qua một
số loại rủi ro như:
+ Đánh giá rủi ro tín dụng qua các chỉ tiêu: tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ, tỷ lệ
xóa nợ ròng/tổng dư nợ, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng/tổng dư nợ…
+ Đánh giá rủi ro thanh khoản qua: tỷ lệ các khoản vốn vay/tổng tài sản,

Bên cạnh các phương pháp phân tích chỉ số truyền thống vốn chỉ phản
ánh, đánh giá hiệu quả bề ngoài và khó lượng hóa, các nhà kinh tế học hiện
đại đã nghiên cứu, phát triển phương pháp phân tích hiệu quả biên để đo
lường hiệu quả và lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
điển hình như Farrell (1957), Charnes, Cooper và Rhodes (1978), Fare,


17
Grosskopf và Lovell (1994)…Từ đó, hiệu quả hoạt động sẽ được xác định
một cách tổng hợp thành một đại lượng cụ thể, rõ ràng.
Với những nền móng cho việc đo lường hiệu quả hoạt động, Farrell
(1957) cho rằng hiệu quả hoạt động của một đơn vị bao gồm 2 thành phần là
hiệu quả kỹ thuật (Technical efficiency), phản ánh khả năng một đơn vị tối đa
hóa đầu ra với đầu vào cho trước hay khả năng tối thiểu hóa đầu vào với một
lượng đầu ra cho trước và hiệu quả phân bổ (allocative efficiency), phản ánh
khả năng một đơn vị kết hợp các yếu tố đầu vào một cách hợp lý. Hai thành
phần này được kết hợp để đo lường tổng thể hiệu quả kinh tế (economic
efficiency) hay hiệu quả toàn phần.
Có 2 hướng tiếp cận để đo lường hiệu quả của một đơn vị là định hướng
đầu vào và định hướng đầu ra.
- Định hướng đầu vào
Theo cách tiếp cận này thì hiệu quả được hiểu là việc tối thiểu hóa các
đầu vào (Input) để sản xuất một lượng đầu ra (Output) cố định.

x2/y
S
P
A

Q

Theo đó, QR là khoản chi phí sản xuất có thể cắt giảm nếu sản xuất diễn
ra tại điểm hiệu quả phân bổ và hiệu quả kỹ thuật (kết hợp thành hiệu quả
toàn phần) Q’ thay vì điểm hiệu quả kỹ thuật Q.
Như vậy, hiệu quả toàn phần (EE) được xác định như sau:
- Định

hướng đầu ra:
Nếu như phương pháp đo lường hiệu quả định hướng đầu vào trả lời cho
câu hỏi: “Có thể cắt giảm một lượng đầu bao nhiêu mà không làm thay đổi
sản lượng đầu ra?” thì phương pháp định hướng đầu ra lại trả lời câu hỏi
ngược lại “ Có thể tạo thêm bao nhiêu sản phẩm đầu ra mà không làm thay
đổi lượng đầu vào cho trước?”.
y2/x
Farrel đã sử dụng 2 biến đầu ra (y1 và y2) và chỉ định một biến đầu vào
D

(x), với giả định không thay đổi theo quy mô, để mô tả phương pháp định
hướng đầu ra này. Theo đó, ZZ’ là đường cong giới hạn khả năng sản xuất và
C

Z nằm dưới đường cong này, hay có thể hiểu là điểm mà tại
điểm A là một điểm
B

đó DMU hoạt động không hiệu quả. Khoảng cách AB chính là mức phi hiệu
B’

quả của DMU, hay chính là lượng đầu ra mà DMU có thể tạo thêm nếu hoạt
A


Nghiên cứu trên thế giới:
Fadzlan Sufian, Mahamad Akbar Noor Mohamad Noor (2012),
Determinants of bank performance in a developing economy: Does bank
origins matter?
Nghiên cứu nhằm kiểm tra các yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Ấn Độ trong giai đoạn 2000 –
2008. Mục tiêu của nghiên cứu là để mở rộng các công trình nghiên cứu trước
đây về lĩnh vực ngân hàng Ấn Độ và kiểm tra tác động của các nhân tố đến
hiệu quả hoạt động của các ngân hàng nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực
ngân hàng. Bài báo nghiên cứu về cả tác động của các yếu tố bên trong lẫn
các yếu tố bên ngoài như điều kiện kinh tế vĩ mô và cơ cấu thị trường tài


20
chính. Mặc dù đã có những nghiên cứu trước đó như Ataullah và Le (2006),
Bhattacharyya et al (1997), Bodla và Verma (2007), Das và Ghosh (2009)…
nhưng hầu như chưa có nghiên cứu nào công bố kiểm tra lợi thế toàn cầu
trong số các ngân hàng nước ngoài hoạt động tài Ấn Độ. Bài viết nhằm cung
cấp lần đầu tiên bằng chứng thực nghiệm về các tác động của các nhân tố đến
hiệu quả hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Ấn Độ.
Nghiên cứu đã đưa ra mô hình nghiên cứu gồm các biến sau: Biến phụ
thuộc là Tỷ lệ lợi nhuận/tổng tài sản (ROA), các biến giải thích gồm các biến
nội sinh và ngoại sinh. Biến nội sinh là rủi ro tín dụng, khả năng tự chủ tài
chính, tỷ lệ chi phí ngoài lãi trên tổng tài sản, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng
tài sản, tổng các khoản cho vay/tổng tài sản, và quy mô ngân hàng. Biến ngoại
sinh gồm có: GDP, tỷ lệ lạm phát hằng năm, tăng trưởng cung tiền, mức độ
tập trung và cạnh tranh, tỷ lệ vốn hóa thị trường chứng khoán trên GDP. Việc
lựa chọn và đưa ra các biến được giải thích một cách chặt chẽ và kèm theo đó
là các giả thiết nghiên cứu. Sau khi có được mô hình, tác giả đã sử dụng
phương pháp hồi quy bội, các dạng tuyến tính log được chọn vì nó cải thiện

b.

hàng Ấn Độ.
Nader Naifar (2010), The determinants of bank performance: an analysis
of theory and practice in the case of an emerging maket
Mục đích của nghiên cứu là nhằm giải thích thực nghiệm các yếu tố
quyết định đến hiệu quả hoạt động ngân hàng sử dụng chuỗi gộp thời gian và
dữ liệu mặt cắt ngang. Phát hiện lý thuyết và hầu hết các nghiên cứu thực
nghiệm tập trung chủ yếu ở thị trường phát triển, do đó, nghiên cứu đã chọn
một thị trường mới nổi, Tunisia, để kiểm tra tính hợp lệ của những nghiên cứu
này. Môi trường kinh doanh Tunisia đang dần thay đổi vì sự cải cách thể chế
đã được thực hiện thành công từ năm 1987. Nghiên cứu này phân tích hiệu
quả hoạt động ngân hàng Tunisia từ năm 1999 đến năm 2007.
Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật hồi quy để khám phá mối quan hệ của các
yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng Tunisia. Biến phụ


22
thuộc được lựa chọn đại diện cho hiệu quả hoạt động là tỷ lệ lợi nhuận trên
tổng tài sản (ROA) và tỷ lệ lợi nhuận/vốn chủ sở hữu (ROE). Tác giả đã kiểm
tra ma trận tương quan, xem xét mối quan hệ giữa ROA và ROE cũng như ý
nghĩa của từng chỉ tiêu. Các biến giải thích được đưa vào mô hình đó là: Các
khoản cho vay, quy mô ngân hàng, tỷ lệ thanh khoản, chi phí hoạt động, tỷ lệ
vốn chủ sở hữu, quyền sở hữu, số cán bộ quản lý. Theo đó là các giả thuyết
được đưa ra. Theo tác giả, các biến có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt
động ngân hàng đó là các khoản cho vay, tỷ lệ vốn chủ sở hữu, quy mô ngân
hàng, số cán bộ quản lý. Các biến sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt
động ngân hàng là 2 biến quyền sở hữu và chi phí hoạt động, đối với biến tỷ
lệ thanh khoản tác động có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Tuy nhiên, sau khi
thực hiện hồi quy và kiểm định các giả thiết, chỉ có các biên giải thích có sự

của các ngân hàng Ấn Độ. Dữ liệu liên quan được lấy từ 127 ngân hàng trong
giai đoạn 2000 – 2011, trong đó có 26 ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, 20
ngân hàng tư nhân, 43 ngân hàng nước ngoài và 38 ngân hàng hợp tác xã.
Nguồn dữ liệu được lấy từ Trung tâm giám sát kinh tế Ấn Độ (CMIE).
Nghiên cứu đã thu thập các kết quả thực nghiệm trước đó về các nhân tố
ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng và tổng hợp thành 3 nhóm yếu tố tác
động chính, đó là: yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng, yếu tố ngành công
nghiệp và yếu tố vĩ mô. Các yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng có thể kể đến
như chất lượng tài sản, quy mô ngân hàng, thu nhập từ lãi và ngoài lãi, tỷ lệ
tiền gửi, vốn chủ sở hữu…Các yếu tố ngành và vĩ mô đó là mức độ tập trung
thị trường, quy mô công nghiệp, trạng thái sở hữu, lạm phát, lãi suất thực và
GDP. Trong nghiên cứu, tác giả lấy ROA và ROE làm đại diện cho lợi nhuận
ngân hàng và 11 biến giải thích đã được đưa vào mô hình gồm: quy mô ngân
hàng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản, cho vay/tổng tài sản, dự phòng rủi ro
tín dụng/tổng tài sản, tỷ lệ tài sản ngắn hạn/tổng tài sản, tiền gửi/tổng tài sản,
thu nhập lãi thuần/tổng tài sản, thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản, tỷ lệ lạm phát,
tốc độ tăng trưởng GDP vã lãi suất thực tế. Các yếu tố về ngành công nghiệp
đã không được tác giả xem xét trong nghiên cứu này.


24
Sử dụng mô hình hồi quy cố định với biến phụ thuộc ROA và ROE cùng
11 biến giải thích để tìm ra các yếu tố quyết định đến lợi nhuận ngân hàng Ấn
Độ. Các kết quả của cả 2 mô hình hồi quy cho thấy, chất lượng tài sản, tỷ lệ
cho vay/tổng tài sản, thu nhập lãi thuần/tổng tài sản, thu nhập ngoài lãi/tổng
tài sản là yếu tố quyết định quan trọng đến lợi nhuận ngân hàng. Riêng đối
với biến phụ thuộc ROA, ngoài các biến kể trên, còn chịu sự tác động mạnh
mẽ của hai biến: quy mô ngân hàng và tỷ lệ vốn chủ sở hữu. Kết quả hồi quy
cũng chỉ ra rằng các yếu tố kinh tế vĩ mô của nền kinh tế Ấn Độ là yếu tố
không có ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận ngân hàng.

thấy rằng, trong suốt quá trình điều tra, lợi nhuận của các ngân hàng Hy Lạp
chịu ảnh hưởng của sức mạnh vốn, quy mô ngân hàng, việc sự dụng công cụ
phái sinh và chi phí hoạt động. Nghiên cứu cho thấy, lợi nhuận của ngân hàng
Anh thì chịu ảnh hưởng bởi chi phí hoạt động, sử dụng công cụ phái sinh và
tính thanh khoản.
Bên cạnh đó, thì nghiên cứu của Eze Simpson Osuagwu (2014) cũng đã
đóng góp lớn vào cơ sở thực nghiệm về nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận
ngân hàng khi đưa thêm nhiều biến mới vào mô hình. Biến phụ thuộc là lợi
nhuận ngân hàng, được đại diện bởi 3 chỉ số tài chính là ROA, ROE và NIM,
vì vậy có 3 mô hình hồi quy trong trường hợp này. Các biến giải thích bao
gồm cả 3 nhóm: yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng, đó là chi phí cơ hội của
việc nắm giữ dự trữ với Ngân hàng trung ương, tỷ lệ chi phí hoạt động trên
tổng tài sản, tỷ lệ tổng dư nợ/tổng tài sản, tỷ lệ tổng tiền gửi/tổng cho vay, tỷ
lệ thu nhập ngoài lãi/lợi nhuận hoạt động, tỷ lệ nợ xấu/tổng cho vay, tỷ lệ tiền
gửi kỳ hạn/tổng tiền gửi yếu tố ngành đó là mức độ cạnh tranh và mức độ tập
trung thị trường, yếu tố vĩ mô bao gồm tỷ lệ lạm phát và tỷ giá hối đoái. Kết
quả nghiên cứu cho thấy rằng lợi nhuận ngân hàng chủ yếu được xác định bởi
các yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng như rủi ro tín dụng, tỷ lệ chi phí hoạt
động, tỷ lệ tổng dư nợ/tổng tài sản.... Tập trung thị trường có ý nghĩa như một
yếu tố quyết định lợi nhuận ngân hàng và tỷ giá hối đoái cũng là một yếu tố



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status