Quan điểm tam cương trong triết học nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở việt nam hiện nay - Pdf 39

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

TRẦN THỊ

QUAN ĐIỂM “TAM CƯƠNG” TRONG
TRIẾT HỌCNHO GIÁO VÀ sự ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI VIÊC XÂY
• • DƯNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Ngưòi hướng dẫn khoa học:
ThS. Nguyễn Thị Giang

HÀ NỘI, 2016


Để có được thành công của đề tài này chúng em xin bày tỏ lòng cảm ơn tói ThS.
Nguyễn Thị Giang về sự giúp đỡ, hướng dẫn và dìu dắt tận tình của cô trong suốt quá
trình em thực hiện đề tài khóa luận. Sự giúp đỡ của cô đã giúp em có nghị lực để vượt
qua khó khăn và hoàn thảnh đề tài khóa luận tốt nghiệpLỜI
này.CẢM
Qua đây em cũng bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới nhà trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 nói chung và các thầy cô trong khoa Giáo dục Chính trị - Giáo dục
công dân nói riêng đã tạo điều kiện cho em được học tập trong môi trường tốt, được
tham gia làm khóa luận. Đây là điều kiện thuận lợi để em được học hỏi, tiếp thu tri
thức mới. Đây cũng là cơ hội để em khẳng định bản thân mình, rèn luyện các kỹ năng
thực tế như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng mềm, kỹ năng thảo luận nhóm...

MỞ ĐẦU

1. Lí do chon đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội. Từ gia đình, con người được sinh ra và trưởng
thành cả về thể chất lẫn nhân cách. Với hai chức năng cơ bản của gia đình: tái sinh
con người để duy trì nòi giống và xã hội hóa cá nhân để hình thành nhân cách, gia
đình sẽ tồn tại mãi trong đời sống của nhân loại. Sức mạnh trường tồn của mỗi quốc
gia, dân tộc, xã hội - phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại, phát triển của gia đình và gia
đình văn hóa. Không những thế, gia đình còn có vai trò rất quan trọng trong sự phát
triển kinh tế cũng như giữ gìn, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp, giữ
vững bản sắc văn hóa dân tộc một cách bền vững; đồng thòi loại bỏ các hủ tục, lạc hậu
và tiếp thu các giá trị hiện đại là xu hướng phát triển của mỗi gia đình.
Ở Việt Nam, vấn đề gia đình đang được đặt ra với vị trí mang tầm chiến lược
quốc gia. Từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỉ quả độ tiến lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta khẳng định: “Gia đình là tể bào của xã hội, là cái nói thân yêu nuôi
dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sổng và hình thành nhân
cách. Các chính sách của Đảng và Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ẩm,
hòa thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đổi với mọi lớp người” [9, tr.
76 - 77].
Với tư cách là một thiết chế xã hội văn hóa, gia đình Việt Nam trong truyền
thống và hiện đại vẫn là nơi hội tụ, gắn kết mỗi thành viên trong gia đình vói nhau.
Khi vui người ta luôn san sẻ cùng gia đình và khi buồn cũng tìm sự an ủi, chở che từ
gia đình thân yêu. Vì thế, đối với mỗi con người Việt Nam mang tâm hồn Việt, gia
đình là nơi thiêng liêng nhất, thực sự là nơi ẩn náu của sự yên ổn, sự kính trọng và tình
yêu thương. Nét đẹp trong văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam đã góp phần
làm phong phú hơn lên bản sắc văn hóa dân tộc, ngày nay những giá trị đó cần được
kế thừa và phát huy.
Nho giáo cho rằng, gia đình có vị trí quan trọng trong sự ổn định và phát triển



“xây đi đôi vói chống và lấy xây làm chính”.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề đã nêu trên nên nghiên cứu quan điểm
Tam cương của triết học Nho giáo và sự vận dụng những giá trị của tư tưởng đó vào
xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài: “Quan điểm “Tam cương” trong triết học Nho
giáo và sự ảnh hưởng của nó đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam
hiện nay”.

2. Lịch sử nghiền cứu đề tài
Ở Việt Nam, từ trước đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu đến Nho giáo
và gia đình cũng như gia đình văn hóa. Có thể khái quát một số kết quả nghiên cứu ở
hai loại hình chủ yếu sau:
về học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo (2004) của tác giả Minh Anh,
Tạp chí Triết học, số 8, tr.46; Việt Nam phong tục (2001) của tá giả Phan Kế Bính,
Nxb Văn hóa Thông tin Hà Nội; Vai trò và nhiệm vụ của người phụ nữ Việt Nam
trong gia đình mới của cách mạng (1974) của tác giả Lê Duẩn, Nxb Sự thật, Hà Nội;
Văn hóa đổi mới (1994) của tác giả Phạm Văn Đồng, Nxb CTQG, Hà Nội; Phát triển
giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế- xã hội (1996) của tác giả
Phạm Minh Hạc, Nxb KHXH, Hà Nội; Quyền lực của vợ- chồng trong gia đình nông
thôn Việt Nam (2007) của tác giả Phạm Thị Huệ, Tạp chí xã hội học, số 3, Ừ.47; về
gia đình truyền thống Việt Nam với ảnh hưởng của Nho giáo (1989) của tác giả Trần
Đình Hượu, Tạp chí xã hội học, số 2, ta.25; Suy nghĩ về việc xây dựng chiến lược gia
đình hiện nay (2003) của tác giả Lê Thị Qúy, Tạp chí cộng sản, số 30, tháng 10; Gia
đình Việt Nam ừong bối cảnh đất nước đổi mới (2003) của tác giả Lê Thi, Nxb Khoa
học
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập tới những vấn đề lý luận và thực tiễn


về gia đình, văn hoá gia đình, xây dựng gia đình văn hoá, sự biến đổi của gia đình và
văn hoá gia đình trong bối cảnh mói, những vấn đề của gia đình Việt Nam từ truyền

4.1.

Mục đích nghiên cứu
Khóa luận góp phần làm rõ vấn đề lý luận chung về tư tưởng Tam cương trong

triết học Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó cần vận dụng trong việc xây dựng gia đình
văn hóa ở Việt Nam


4.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích nêu trên đề tài đề ra nhiệm vụ cụ thể đó là:
Tìm hiểu quan điểm “Tam cương” của triết học Nho giáo
Tìm hiểu về gia đình và gia đình văn hóa ở Việt Nam
Sự ảnh hưởng của quan điểm “Tam cương” đối vói việc xây dựng gia đình văn

hóa ở Việt Nam hiện nay

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiền cứu của đề tài
5.1.

Cơ sở lý luận
Đứng trên quan điểm của phép biện chứng duy vật trong quá trình nghiên cứu đề

tài như: quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển, quan
điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng gia đình
văn hóa.

5.2.


1.1.

Một vài nét về Nho giáo

1.1.1.

Sự ra đời của Nho giáo
Nếu phương Đông là chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại thì Ấn Độ và

Trung Quốc là những trung tâm văn hóa triết học cổ xưa rực rỡ và phong phú nhất của
nền văn minh ấy. Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện
sớm nhất trên thế giới hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại
trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học, nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học
lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới.
Một trong những tư tưởng triết học phương Đông thời đó mà ý nghĩa của nó vẫn
còn có giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề luân lí, đạo đức, chính trị - xã hội, đó là
những tư tưởng triết học của Nho giáo. Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt
nguồn từ chữ “nhân” (người), đứng cạnh chữ “nhu” (cần, chờ, đợi). Nho giáo xuất
hiện sớm, lúc đầu chỉ là những tư tưởng hoặc là trí thức chuyên học văn chương và
lục nghệ góp phần trị nước. Đến thòi Khổng Tử đã hệ thống hóa những tư tưởng và trí
thức trước đây thành học thuyết, gọi là Nho học hay “Khổng học”.
Nho giáo ra đời cách đây hơn 2500 năm ở Trung Hoa cổ đại gắn liền với tên tuổi
người sáng lập là Khổng Tử. Khổng Tử hay còn gọi là Khổng Phu Tử sinh ngày 27
tháng 8, 551 TCN, mất ngày 11 tháng 4, năm 479 TCN ở nước Lỗ ừong một gia đình
quý tộc sa sút. Khi còn nhỏ, tuy gia cảnh nghèo khó nhưng ông vẫn có điều kiện học
sớm và rất ham học. Ông là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người
Trung Hoa; các bài giảng và triết lí của ông có ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống
và tư tưởng của các nền văn hóa Đông Á. Người Trung Hoa đời sau đã tôn xưng ông
là Vạn thế sư biểu (bậc thầy của muôn đời). Khổng Tử tuy sáng lập ra học thuyết



Nho giáo có 6 bộ sách lớn là Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và
Kinh Xuân Thu. Đến đời nhà Tần, bộ Kinh Nhạc bị thất truyền, chỉ còn lại Ngũ Kinh.
Tư tưởng trung tâm của Nho giáo là những vấn đề về chính trị, đạo đức của con ngưòi
và xã hội.
Trong cuộc đời dạy học của mình, những lời dạy của Thầy đã được học trò ghi
chép lại và tập họp thành bộ “Luận Ngữ”. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là
Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời dạy mà soạn ra sách Đại học; sau đó cháu
nội của Khổng Tử là Khổng cấp còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đen thời
Chiến Quốc, Mạnh Tử đã ra sức bảo vệ Nho giáo, thường xuyên tỏ thái độ tôn sừng
vương đạo, khinh bỉ bá đạo; tôn sùng nhân, nghĩa; khinh bỉ thói mưu lợi. Từ những
đòi hỏi của thực trạng xã hội lúc bấy giờ, Mạnh Tử đã đề cập đến nhiều vấn đề cụ thể
của đời sống chính trị và kinh tế nhiều hơn thầy Khổng Tử. Mạnh Tử đã tập họp và
ghi lại những cuộc biện luận của mình thành tập gọi là “Bảy Thiên” Mạnh Tử. Như
vậy, Mạnh Tử cùng với Luận ngữ, Đại học và Trung dung tập họp thành bộ Tứ thư và
cùng với Ngũ Kinh trở thành tài liệu chính thức của Nho Giáo.
Thời Đông Chu kéo dài trong cảnh loạn lạc, rối ren. Tình hình này đẩy toàn bộ
triều đại nhà Chu và hình thái kinh tế - xã hội của nó đi tới chỗ kết thúc và đòi hỏi
Nho giáo muốn tồn tại và phát triển được thì phải vượt qua khủng hoảng. Thực tế đạo
lý Nho giáo không thế chấm dứt được tình trạng loạn lạc, vốn đặt nền tảng ở “nhân
trị”, đã không thể áp dụng thành công ữên phương diện trị quốc.
Nho giáo, đạo lý làm vũ khí tinh thần bảo vệ nề nếp, thể chế nhà Chu cũng phải
chịu sự phán quyết của thế lực đang lên. Tần Doanh Chính đã ra chủ trưomg “đốt
sách, chôn Nho”, “phần thủ, khanh Nho” làm cho Nho giáo phải lao đao, khốn đốn.
Với những chính sách tàn bạo của nhà Tần đã gặp phải sự lên án và buộc tội của
những thế lực đại biểu cho xu thế mới của xã hội. Lưu Bang đã giành thắng lợi, triều
đại nhà Hán bắt đầu. Từ đây Nho giáo bắt đầu lấy lại được ưu thế của mình và trở
thành vũ khí tinh thần của nhà Hán. Ở thời này, Đại học và Trung dung được gộp vào


thể coi là điểm khác nhất của Nho giáo so với các học thuyết khácvà có lẽ nhờ đó mà
Nho giáo giữ vị trí độc tôn và ưu chuộng trong thời gian rất dài của lịch sử. Mặt khác,
Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người, hướng vào rèn luyện đạo đức con người,
đề cao giáo dục, giáo dục làm cho con người ác thành thiện. Song tuy vậy, đạo làm
người theo quan điểm của Nho giáo là đạo làm người trong xã hội phong kiến. Nho
giáo là hệ tư tưởng phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến, tuy nhiên quan niệm
đạo đức của Nho giáo có nhiều điểm tích cực. Một trong những điểm đó là đặt rõ vấn
đề người quân tử, tức là người lãnh đạo chính trị phải có đạo đức cao cả; dù nguyên
tắc ấy không được thực hiện trong thực tế nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho những
sĩ phu đấu tranh. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần trách nhiệm cao cả với xã
hội, là yếu tố tạo nên truyền thống hiếu học, truyền thống khí tiết của kẻ sĩ. Như vậy,
tư tưởng đạo đức của Nho giáo có ý nghĩa vô cùng quan ừọng và có giá trị lớn lao cho
tới ngày hôm nay.

1.1.2.

Sự du nhập của Nho giáo ở Việt Nam
Nho giáo được du nhập vào Việt Nam theo chân kẻ xâm lược, là công cụ thống

trị tư tưởng của các tập đoàn phong kiến phương Bắc và đã tồn tại trong suốt thời kỳ
phong kiến. Một số quý tộc người Việt học chữ Hán để phục vụ cho chính quyền đô
hộ. Một số người học để nâng cao tầm hiểu biết. Mục đích khác nhau, song do hoàn
cảnh lịch sử xã hội, người Việt tiếp thu Nho giáo có cải biến. Nho giáo lúc đầu gặp sự
phản ứng, do đó do nhu cầu thực tiễn người Việt đã tiếp biến Nho giáo theo hướng có
lợi, biến công cụ tư tưởng của kẻ thù thành công cụ nhận thức ừong cuộc đấu tranh để
tồn tại và phát triển. Vậy là từ chỗ bị ép học nó, nhân dân ta đã tự nguyện làm quen và
học nó ngày một phổ biến rộng rãi. Vì thế những người Việt Nam đầu tiên được giữ
chức vụ quan ừọng dưới thời Bắc thuộc như Lý Tiến, Lý cầm - làm thái thú, thứ sứ đều là những người học thông kinh truyện, xuất thân từ khoa bảng. Đã có một số bằng
chứng cho thấy Nho giáo được truyền vào thế kỷ I TCN khi ở Trung Quốc nhà Tây
Hán đã đánh bại tập đoàn phong kiến họ Triệu và giành lấy quyền thống trị và cho lập


dân.
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, Nho giáo giữ vị trí độc tôn. Các sách kỉnh điển
của Nho giáo được in ấn và phát hành rộng rãi. Với Nho giáo có xu hướng đi sâu vào
những luận điểm triết học về chính trị và đạo đức nhắm xác lập ý thức hệ cai trị phong
kiến theo mô hình chế độ trung ương tập quyền cao độ. Nhiều tư tưởng tiến bộ ừong
các quan điểm chính trị - đạo đức của Nho giáo đã được các nhà tư tưởng Việt Nam kế
thừa theo tinh thần thực tiễn của dân tộc. Đó là tư tưởng thân dân, trọng dân, coi dân
là gốc của quốc gia. Đó là tư tưởng nhân, nghĩa trong đời sống chính trị - xã hội, đó là
mối quan hệ biện chứng song trùng giữa vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, đó là các
phạm trù đạo đức trung hiếu, tiết nghĩa. Như vậy, việc sử dụng Nho giáo qua các triều
đại phong kiến là sự lựa chọn có ý thức của giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam.
Nho giáo thực sự trở thành công cụ hữu hiệu phục vụ cho việc trị nước mà Phật giáo
và Đạo giáo không có.
Nho giáo đã có lịch sử rất lâu đời, trải qua nhiều giai đoạn với những bước
thăng trầm khác nhau và ảnh hưởng tới sự phát triển của xã hội Việt Nam ở những
phương diện nhất định. Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn được bề
trên chăn dắt và sai khiến; Hồ Chí Minh đòi lấy người cán bộ phải là “đầy tớ của nhân
dân”, phải học hỏi nhân dân và yêu quý nhân dân. Với tỉnh thần ấy, Hồ Chí Minh đã
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành
độc lập và xây dựng Tổ quốc. Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần
“ừọng nam khinh nữ”, từ chỗ khinh rẻ phụ nữ tới chỗ áp bức họ, trói buộc họ trong
bếp núc gia đình. Cách mạng Việt Nam đã sớm bỏ qua những tư tưởng lạc hậu ấy, mở
tung cánh cửa gia đình để người phụ nữ cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh
vực chiến đấu, sản xuất và quản lý gia đình và đất nước.
Bên cạnh đó, Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi ừọng học hành. Hàng nghìn
năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lí luận để tổ
chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nho giáo coi trọng đức là coi ừọng



trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhiều
tư tưởng triết học đã được các nhà tư tưởng Việt Nam tiếp thu có chọn lọc, bổ sung;
các danh Nho Việt Nam không có sự sáng tạo gì đóng góp vào học thuyết mà chỉ thể
hiện rõ chí khí, bản lĩnh của mình trước những việc bất bình của xã hội. Ngày nay,
chúng ta phê phán Nho giáo dựa trên lập trường triết học Mác - Lênin. Từ đó, kế thừa
và phát huy những nhân tố tích cực của nó để phục vụ cho công cuộc phát triển đất
nước. Đây cũng chính là những sáng tạo tư tưởng theo tinh thần thực tiễn Việt Nam,
góp phần làm sâu sắc và phong phú đời sống tinh thần và học thuyết của dân tộc.

1.2.

Nội dung của quan điểm “Tam cương” trong triết học Nho giáo

1.2.1.

Các quan hệ của “Tam cương” trong triết học Nho giáo

1.2.1.1.

Quan hệ vua-tôi

Trước hết quan hệ quân thần: (“Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” nghĩa là
dù vua có baỏ bề tôi chết đi nữa thì bề tôi cũng phải tuân lệnh, nếu bề tôi không tuân
lệnh thì bề tôi không trung với vua). Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt luôn luôn
công minh, tôi trung thành một dạ.
Dân ta ngày xưa tin rằng phải có Trời “Không có Trời, ai ở được với ai?”.Hẳn vì
thế mà cũng cho rằng một nước cần phải có vua, vì nếu không có người cầm đầu để
quản lý xã hội cho có trật tự thì làm sao dân chúng có thể sinh sống yên bình được?
Do đó phát sinh ra mối tưomg quan giữa vua và tôi:
“Ong kiến còn có vua tôi


Vua phải biết làm cho dân giàu và biết giáo hóa dân

-

Vua phải biết tận dụng người đức độ và có năng lực làm việc, phải biết rộng lượng với
những người cộng sự của mình.
Vì vậy, bề tôi đối với vua, theo ông phải coi như cha, như mẹ của mình. Trong
quan hệ giữa bề tôi và vua, tôi vì vua mà “Trung”. “Trung” của Khổng Tử chỉ đòi hỏi
sự hết lòng và thành tâm thật ý trong quan hệ với nhau.
*Quan niệm của Đổng Trọng Thư về quan hệ vua-tôi
Ông đưa ra thứ quy tắc đạo đức phi lí, phi nhân bản: Vua xử tội chết thần phải
chết nếu không mắc tội bất trung. Ngoài ra ông còn nói: Vua là tượng của “Trời” nên
có đức che, hướng dẫn, bề tôi là tượng của “Đất” nên có đức tính chuyên chở tuân


theo và “Trung quân” là phải trung thành tuyệt đối với nhà vua. Bởi vì mối quan hệ
vua - tôi là đứng đàu trong ba mối quan hệ được coi là đường cột, cơ bản của con
người, xã hội.
Như vây, quan hệ vua - tôi có nghĩa là: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”
(vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết là không có lòng trung) và ngoài ra vua thưởng
phạt luôn luôn công minh, tôi trung thành một dạ. Hơn nữa chữ “trung” vốn chỉ có
nghĩa là ngay thẳng, hết lòng, hết sức với vua. Vua là người cầm đầu trong nước, coi
trách vụ làm cho dân no ấm yên lành, cho nước được tự chủ độc lập. Dân là kẻ được
hưởng các điều ấy, ắt là phải phục vụ phò vua một cách ngay thẳng, hết lòng hết sức:
“Làm tôi thì ở cho trung
Chớ ở hai lòng mà hóa dở dang”
1.2.1.2. Quan hệ cha - con
Quan hệ cha con là một trong ba quan hệ cơ bản của con người. Duy trì mối
quan hệ này cũng là duy trì tôn ti trật tự trong gia đình cũng như xã hội và ràng buộc

mọi người”. Cha mẹ là người thầy đầu tiên định hướng cho con cái, rèn luyện cho con
cái nề nếp học tập và đức tính tốt.
Khác với tư tưởng hiếu thuận của người Phương Tây đề cao quyền bình đẳng
của con cái Nho giáo quy định con cái phải nghe lời không được cãi lại cha mẹ “Cha
mẹ mắng cửa trước, con cái luồn cửa sau”. Là con thì phải luôn giữ được địa vị của
ông cha, làm theo lễ của ông cha, tấu nhã như ông cha, kính những người mà ông cha
trọng, mến những người mà ông cha yêu, thờ người thác như thờ người sống, trọng
những người đã qua như trọng người đang tồn tại. Để làm được như vậy theo Khổng
Tử “Cha còn sống phải xem xét chí của cha, cha chết rồi phải xem việc làm của cha,
ba năm không thay đổi những lời cha đã dạy, như thế có nghĩa là hiếu vậy” [ Khổng
Tử, Luận Ngữ, Học Nhi, tiết 11]. Do ảnh hưởng của quan niệm trên mà trong gia đình
Việt Nam hiện nay con cái không được tự ý quyết định một vấn đề nào đó khi chưa


được xem như là kim chỉ nam, thước đo của chuẩn mực đạo đức mà người con luôn
phải tuân theo:
“Cá không ăn muối cá ươn
Con không nghe cha mẹ ữăm đường con hư”.
Nho giáo cũng quan niệm: Người làm con phải phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ
còn sống. Điều đó có nghĩa là khi phụng dưỡng cha mẹ thì phải có sự kính cẩn, phải
có lễ, Khổng Tử chỉ rõ “Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là
người có hiếu. Nhưng những con thú như chó, ngựa thì người ta cũng nuôi. Cho nên
nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật” [ Luận Ngữ, Vi chính,
tiết 7]. Vì thế, việc phụng dưỡng cha mẹ là phải biết kính cẩn, chăm sóc cha mẹ.
Trong gia đình Việt Nam hiện nay, con cái cũng luôn chăm sóc, kính trọng ông bà, cha
mẹ. Sự kính ừọng được thể hiện bằng nhiều việc làm khác nhau trong đó phải kể đến
việc các con cái ừong gia đình làm việc mừng thượng thọ. Những gia đình nào có cha
mẹ già đến bảy, tám mươi tuổi thì làm lễ mường thọ cho cha mẹ, gọi là lễ “thượng
thọ”. Hôm ăn mừng trước hết người ta làm lễ gà xôi, hoặc tam xinh hoặc heo giò đem
ra đình lễ thần gọi là bái tạ thần hưu, có nghĩa là tạ ơn thánh thần đã phù hộ cho cha

duy trì truyền thống tốt đẹp tổ tiên để lại. Nhiều bản gia pháp chuyển những quy định
thành những câu thơ dễ đọc hơn.
Bài “Vè dạy con” (Sưu tầm ở Tâm Phước, Gò Công Đông)
Con đừng ham bạc ham tiền
Đem duyên bán rẻ để phiền cho duyên
Gái khôn chẳng khác chiếc thuyền
Trai khôn cầm bách mối giềng thẳng ngay
Con đừng vợ một vợ hai
Ăn chơi làm lạc có ngày ly thân
Con mà tiết kiệm ân cần


Siêng năng làm lụng để phần ấm no
Những bài vè hay những câu ca dao từ xa xưa để lại đều mang đậm nét nhân
văn, tính giáo dục cao đối với các thành viên trong mối quan hệ gia đình. Qua đây ông
cha ta muốn truyền lại tử tuởng Nho giáo về trách nhiệm và nghĩa vụ riêng phù họp
với danh phận của mỗi thành viên. Cha mẹ phải nuôi dưỡng, giáo dục con cái và
ngược lại con cái phải vâng lời cung kính với cha mẹ.
1.2.1.3. Mối quan hệ chồng - vợ
Trong gia đình Nho giáo truyền thống Việt Nam quan hệ chồng - vợ được quy
định khá rõ ràng. Nho giáo đã đúc kết mối quan hệ ấy vào những quy luật như đối với
người vợ, người đàn bà trong xã hội là “tam tòng, tứ đức”. Tam tòng- tại gia tòng phụ
- xuất giá tòng phu - phu tử tòng tử. Có nghĩa là khi chưa lấy chồng người con cái
phải biết nghe lời cha mẹ, khi lấy chồng phải biết phục tùng chồng, chồng chết thì
phải ở vậy mà nuôi con không nên tái giá. Tứ đức - Công (chăm lo cuộc sống gia
đình), Dung (chăm lo thân thể cho tốt, đẹp, sạch sẽ), Ngôn (lời nói dịu dàng, đoan
ừang), Hạnh (ngay thẳng nhân ái trong mọi công việc), Trong xã hội Việt Nam hiện
đại những quy tắc Nho giáo xưa vẫn tồn tại trong thiết chế mỗi gia đình cũng như
ừong quan điểm chuẩn mực đạo đức của mỗi con người Việt Nam. Tuy nhiên, những
quy tắc Nho giáo này đã phát triển cùng với sự tiến bộ của xã hội và nhận thức cả con


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status