sáng kiến kinh nghiệm phát triển kỹ năng giao tiếp tiếng anh cho học sinh cấp tiểu học - Pdf 37

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐỨC HÒA
TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN THỊ HẠNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:

PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG ANH
CHO HỌC SINH CẤP TIỂU HỌC

Người thực hiện: HUỲNH THỊ THU TRANG
Đơn vị: Trường Tiểu Học NGUYỄN THỊ HẠNH

NAÊM HOÏC :2015 -2016
0 - 2011


Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016

Trường TH Nguyễn Thị Hạnh

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:

PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG ANH
CHO HỌC SINH CẤP TIỂU HỌC
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý Do Chọn Đề Tài:
1.Đặt vấn đề:
 Cơ sở lí luận :
Theo đà phát triển không ngừng của việc giao lưu Quốc tế, phổ cập Tiếng
Anh đã trở thành một việc không thể thiếu. Không chỉ người lớn mong muốn có


2. Mục đích đề tài :
Để góp phần phát triển kĩ năng giao tiếp môn Tiếng Anh tiểu học theo
phương hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, tăng
cường hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu . Hình thành và rèn luyện
kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực hiện quá trình giao tiếp .
Tạo hứng thú học tập môn Tiếng Anh cho học sinh, một môn học được coi
là mới mẻ và khó khăn thì việc đưa ra phương pháp để phát triển kỹ năng giao
tiếp cho các em, giúp các em vận dụng các từ Tiếng Anh đã học ở mỗi tiết học,
nhằm mục đích để các em không chán nản môn học quá mới mẻ, có cảm giác
học mà chơi, chơi mà học. Phương pháp này trong giờ học không những chỉ
giúp các em lĩnh hội được kiến thức, từ ngữ mà còn giúp các em củng cố và
khắc sâu kiến thức hơn nữa .
3. Lịch sử đề tài :
Trong xu thế hội nhập của nước ta và chương trình giáo dục tiểu học hiện
nay, môn Tiếng Anh cùng với các môn học khác trong trường tiểu học có những
vai trò góp phần quan trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn diện,
đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới .
Muốn học sinh tiểu học học tốt môn Tiếng Anh thì mỗi người giáo viên
dạy môn Tiếng Anh không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu sẵn có
trong sách giáo khoa, trong sách hướng dẫn và sách thiết kế bài giảng một cách
rập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động . Nếu chỉ dạy
học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết
quả học tập sẽ không có hiệu quả . Nó là một trong những nguyên nhân gây ra
cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo
sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày .
Trong những năm gần đây, yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi
mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học và các cấp học, nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học . Chính vì vậy, môn Tiếng Anh nói chung và mônTiếng
Anh ở bậc tiểu học nói riêng cũng cần phải có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa,

nghiên cứu : Học sinh khối 3,4,5 của trường tiểu học Nguyễn Thị Hạnh .

PHẦN NỘI DUNG
II. Nội dung công việc
1 .Thực trạng đề tài:
a/ Thuận lợi:
Trường tiểu học Nguyễn Thị Hạnh nơi tôi đang công tác phòng học thoáng
mát đảm bảo diện tích hoạt động học tập cho học sinh. Có sân chơi rộng rãi, mát
mẽ,đảm bảo an toàn rất thuận lợi cho việc học tập ngoài trời.
Bản thân tôi được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và được tham gia tập
huấn bồi dưỡng đổi mới phương pháp dạy học Tiếng anh tiểu học do Sở giáo
dục tổ chức.Được học hỏi qua thăm lớp dự giờ của đồng nghiệp trường mình
và trường bạn qua việc dự giờ cụm chuyên môn.
Nhà trường rất quan tâm và tạo điều kiện cho việc dạy và học môn Tiếng
Anh.
Trong các chương trình tiểu học hiện nay, bộ sách Tiếng Anh 3, Tiếng
Anh 4, Tiếng Anh 5 của Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam là một chương trình
thích hợp cho trẻ đã và đang được các trường tiểu học phổ biến rộng rãi. Nó là
một giáo trình sách giáo khoa có nội dung kiến thức phù hợp với thực tế cuộc
sống học sinh và có nhiều tranh ảnh đẹp, dễ bắt mắt, tạo niềm hứng thú cho
học sinh.gồm các từ vựng, mẫu câu và các hình ảnh thân thuộc, gần gũi với cuộc
sống hằng ngày của các em. Bộ sách chú trọng 4 kỹ năng : nghe, nói, đọc và viết
Sự phát triển của công nghệ thông tin giúp giáo viên có được nhiều
nguồn tư liệu, hình ảnh qua mạng Internet.
Giáo viên nhiệt tình, có trách nhiệm trong công tác giảng dạy môn Tiếng
Anh.
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang

3


cạnh đó các hình thức trò chơi vẫn chưa được tổ chức phong phú. Đặc biệt là
học sinh tiểu học rất thích học Tiếng Anh có lồng ghép vào các trò chơi. Điều
này là rất tốt vì phần nào giáo viên đã làm được việc: Học mà chơi, chơi mà
học.
 Động cơ và ý thức học tập chưa cao:
Môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học vẫn là môn học tự chọn nên một số phụ
huynh và học sinh chưa ý thức được tầm quan trọng của môn học này. Một số
học sinh lên lớp là vì bắt buộc phải lên chứ các em không có một động cơ học
tập nào. Đối tượng học sinh nói không to, các em này rất ngại thực hành giao
tiếp. Vì khả năng tiếp thu chậm, sợ thực hành sai, sợ những nhận xét không tốt
của giáo viên. Một số ít khác là đối tượng nói đúng, nói nhỏ, lí nhí, các em
ngại giao tiếp không phải vì khả năng tiếp thu chậm mà các em bị hạn chế về
mặt tâm lí, ngại thực hành trước đám đông. Ở lứa tuổi này các em rất ham chơi
nên ý thức học tập chưa cao. Thêm vào đó các em rất ít chú trọng vào việc học
và rất lười học bài nhất là từ vựng Tiếng Anh.

GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang

4


Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016

KHỐI

3
4
5

TỔNG SỐ


76
80

92,6
93

6
6

7,3
6,9

2. Nội dung và biện pháp giải quyết:
Trường Tiểu học “Nguyễn Thị Hạnh” thuộc xã Mỹ Hạnh Nam tôi đang
dạy hiện nay chương trình Tiếng Anh đã được giảng dạy nhiều năm. Bản thân
tôi được dạy đều các khối 3, 4, 5, vì vậy tôi thấy rõ những ưu điểm và hạn chế
của học sinh mình. Đối với học sinh lớp 3 và 4 các em rất tự tin và tích cực phát
biểu trong giờ học. Nhưng học sinh khối 5 thì ngược lại, các em ít tham gia xây
dựng bài mặc dù câu hỏi giáo viên đưa ra các em hiểu và trả lời đúng. Qua đây
chúng ta thấy rằng vẫn còn một bộ phận học sinh thiếu tự tin và rụt rè trong giao
tiếp. Mặt khác tôi cũng tự hỏi hay là cách sử dụng phương pháp dạy của mình
gây nhàm chán cho học sinh không còn thu hút các em như lớp 3, và lớp 4 .
Học ngoại ngữ muốn giỏi bản thân người học phải mạnh dạn sử dụng ngôn
ngữ mình học để rèn luyện, nếu có nói sai khi được sửa chúng ta sẽ nhớ lâu hơn
và lần sau nếu gặp lại câu nói đó sẽ không sai nữa. Trong nhiều năm giảng dạy tôi
thấy mặt hạn chế của học sinh trong hoạt động nói là tính thụ động chỉ bám theo
những gì giáo viên hướng dẫn, gợi ý để thực hiện học sinh không mở rộng hay
thắc mắc yêu cầu giải đáp. Có thể nói kỹ năng nói của các em còn chưa tốt.
Về phần mình tôi cần thay đổi cách tổ chức lớp học, cách sử dụng thủ

How are you today ?
Ss : Good morning, Mss. Trang !
We’re fine, thank you.
How are you ?
T : I’m fine. Thanks.
Theo cách dạy truyền thống vào đầu tiết dạy giáo viên thường gọi học
sinh kiểm tra bài cũ, nhưng đối với tôi thì không làm như thế. Trước khi là giáo
viên tôi cũng là một học sinh như các bạn nhỏ bây giờ nên tôi hiểu rõ tâm trạng
các em lúc này. Đối với tôi, tôi sử dụng phương pháp chơi trước khi học để
không khí lớp học không nặng nề mà ngược lại là sự thoải mái và sinh động.
Khi đưa ra yêu cầu trò chơi giáo viên nên nói bằng Tiếng Anh, không cần câu
nói dài chỉ sử dụng một số cụm từ, câu đơn giản nhưng thường xuyên lặp đi lặp
lại, như thế học sinh sẽ hiểu.
Ví dụ:
T : Would you like to play game ?
Ss : Yes.
T : Play game “ Slap the board” – Ok !
Ss : Ok!
T : Four boys and four girls, please !
Now, any volunteers ? Raise your hand !
………………
Sau khi chọn được hai đội tôi sử dụng một số câu ra lệnh đơn giản khác.
Ví dụ:
T : Are you ready ?
Ss : Yes .
T : Now, let’s begin “ one, two,three”
………………
Giáo viên phải tự rèn luyện, học hỏi trao dồi phương pháp dạy với các bạn
đồng nghiệp, trên internet, báo đài, phải tự tin và thường xuyên nói Tiếng Anh
trong lớp để học sinh noi theo. Qua thời gian thăm lớp một số giáo viên trong

Ví dụ:
Tôi cho học sinh chơi trò “Bean bag circle” và sử dụng mẫu câu “This is
a ( an ) + màu sắc + tên vật” để áp dụng vào trò chơi. Học sinh nghe nhạc và
chuyền bóng, khi tiếng nhạc ngưng quả bóng trong tay ai người đó tự đặt một
câu theo mẫu đưa ra. Nếu một học sinh yếu nhận được quả bóng có thể sẽ
không nói được hoặc “ấm a ấm úng”. Lúc này tôi động viên các em “Chúc
mừng em, em có cố gắng nhưng chưa thành công” hay là “Chúc em may
mắn lần sau”.
Một số bộ phận giáo viên chuyển từ trung học cơ sở xuống dạy tiểu học
do chưa hiểu rõ tâm sinh lý lứa tuổi này đôi khi trong tiết dạy còn nghiêm khắc
và “lớn tiếng”, khi các em phát biểu sai. Theo tôi việc này không nên vì sẽ làm
cho học sinh rụt rè, lúng túng khi phát biểu. Từ đó làm hạn chế tính “phản xạ”
trong giao tiếp khi học ngoại ngữ.
2.2 Về học sinh:
a/ Rèn luyện cho học sinh phát âm chuẩn từ vựng và ngữ điệu câu:
Hiện nay, có quan điểm cho rằng học sinh tiểu học còn nhỏ không cần
phát âm chuẩn như người bản xứ nhưng đối với tôi thì ngược lại. Phải tập các
em nói đúng và chuẩn ngay từ khi mới học ngoại ngữ. Bởi vì người xưa thường
nói “Tre non dễ uốn” và một phần do kinh nghiệm bản thân từ nhiều năm nay
dạy học sinh tiểu học nên tôi thấy rõ mặt hạn chế của học trò. Nếu giáo viên lơ
là trong việc sửa lỗi phát âm, không hướng dẫn chú ý trọng âm từ, ngữ điệu
trong câu thì khi nghe người khác phát âm đúng các em không nhận ra và hiểu
được người đối diện nói gì. Mặc khác các em sẽ lúng túng không biết thầy mình
dạy đúng hay người này đúng làm cho học sinh e dè, không tự tin trong giao
tiếp.
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang

7



(Hoa đưa tay vẫy và chìa tay về phía Lan)
Lan : Hi, Hoa . I’m fine, thank you.
(Lan vẫy tay và chỉ vào mình trả lời )
Hoa : How’s the weather ?
(Chỉ tay lên trời)
Lan : It’s sunny .
(Đưa tay lên trời)
Hoa : Let’s play.
Lan : Ok !
(Cả hai cùng nắm tay và chạy)
c/ Khuyến khích học sinh tự làm từ điển cá nhân:
Muốn nói tốt Tiếng Anh phải thuộc nhiều từ, đối với học sinh tiểu học
việc tìm tòi, tham khảo sách báo, trên internet, ti vi còn hạn chế. Vì vậy tôi yêu
cầu học sinh làm quyển từ điển theo hướng dẫn của tôi để học sinh củng cố và
nhớ lâu hơn những từ được học hay sưu tầm.

GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang

8


Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016

Trường TH Nguyễn Thị Hạnh

*Thực hiện:
Vào tuần thứ hai của đầu năm học, tôi yêu cầu mỗi học sinh chuẩn bị một
quyển sổ tay bỏ túi để viết lại tất cả các từ đã học. Yêu cầu học sinh sắp xếp và
viết theo chủ đề (chủ đề về đồ vật, con vật, màu sắc, thời tiết,….)
Tôi hướng dẫn học sinh thực hiện như sau: chia quyển sổ tay thành nhiều

GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang

Vietnamese



9


Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016

Trường TH Nguyễn Thị Hạnh

* trees



* a cloud



* clouds



GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang

10




11


Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016

Trường TH Nguyễn Thị Hạnh

nhau học tập. Trong nhóm có từ hai đến ba học sinh thuộc dạng nói to rõ,chú ý
cách phát âm, những em này được phân công làm nhóm trưởng và nhóm phó để
điều hành nhóm hoạt động và có nhiệm vụ giúp đỡ những bạn nói chưa lưu loát,
phát âm sai từ.
Mỗi nhóm được đặt cho một cái tên như : “ Blue sky”, “Lion”, “Green
grass”, “ Tiger”,….để tạo sự mới lạ, hấp dẫn cho học sinh.
Nhóm hoạt động vào đầu mỗi buổi học có tiết Anh Văn. Chỉ hoạt động từ
5 phút đến 10 phút để cùng nhau học Tiếng Anh. Lúc đầu các em chỉ có thể nói
một vài câu đơn giản như “Hello. What’s your name? How are you? I’m fine,
thank you….”
Qua những bài học tiếp theo số lượng từ vựng và mẫu câu tăng dần từ đó
học sinh nói được nhiều và nội dung phong phú hơn.
Ví dụ:
Vy : Hello, Nam.
Nam : Hi, Vy . What’s the matter ?
Vy : I’m tired.
Nam : Do you want milk ?
Vy : Yes, I do.
Nam : Here you are !
Vy : Thank you.
Nam : You’re welcome.
…………….

thụ bài hát. Từ đó các em có hứng thú và hát hay hơn.
Học sinh hát tập thể, nhóm và có thể cho các em tự chọn bạn hát chung
với mình.
Khi dạy bài hát mới tôi lồng ghép vào tiết làm bài tập tại lớp vừa giảm bớt
căng thẳng vừa cung cấp thêm nhiều bài hát cho học sinh.

3. Kết quả:
Sau khi tôi áp dụng những biện pháp trên vào năm học 2015- 2016 cho
khối lớp 3-4-5 . Qua thống kê và so sánh kết quả học tập của học sinh nhận
thấy chất lượng được nâng cao so với năm học trước. Hơn nữa học sinh cũng
biết sử dụng một số câu Tiếng Anh thông thường để ứng dụng vào các bài đàm
thoại và tự tin hơn khi phát biểu trước lớp.
Hơn nữa, tôi thấy tiết dạy của mình không còn nhàm chán mỗi khi lên
lớp. Không khí lớp học sinh động hơn, học sinh hưng phấn và thích nói Tiếng
Anh nhiều hơn và thường yêu cầu tôi mở rộng thêm một số câu Tiếng Anh sử
dụng trong giao tiếp. Đây là một bước phát triển tốt .
Học sinh không còn lo sợ đến giờ học Tiếng Anh như trước thay vào đó là
tâm trạng trông chờ đến tiết học.
Sau đây là kết quả theo từng năm học của khối 3,4 và khối 5 tôi phụ
trách:
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HỌC SINH HOÀN THÀNH
PHẦN KỸ NĂNG GIAO TIẾP
KHỐI

TỔNG SỐ

MÔN TIẾNG ANH

HS



98,7

1

1,2

5

86

85

98,8

1

1,1

So sánh kết quả năm học chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm và những
năm học có áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Từ kết quả trên cho chúng ta thấy rõ nếu giáo viên có đầu tư tốt vào
giảng dạy, biết áp dụng mọi phương pháp phù hợp với năng lực của từng học
sinh, phù hợp với tình hình chung của mỗi khối lớp thì chúng ta sẽ gặt hái được
chất lượng và hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó tạo được tình cảm tốt “giữa thầy
và trò”, “giữa trò và trò”, học sinh cảm thấy yêu thích môn học mà mình phụ
trách. Để từ đó các em học tốt hơn, giao tiếp Tiếng Anh tốt hơn và tạo nền tảng
cho sự phát triển sau này.
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang


Để đạt được những thành quả trên. Bản thân người giáo viên luôn nhận
thức được trách nhiệm của mình. Tìm mọi biện pháp để rèn luyện từng đối
tượng học sinh, kích thích các em có hứng thú trong việc học ngoại ngữ ngay từ
đầu. Làm được việc này chúng ta đã rèn luyện cho các em có thói quen tốt học
ngoại ngữ.
Trong bất cứ nghề nghiệp hay công việc gì cũng đòi hỏi người làm phải
có cái tâm và niềm đam mê. Có được điều này chắc chắn chúng ta sẽ thành
công.
Bên cạnh được tham gia những lần tập huấn phương pháp dạy do Sở
Giáo Dục và Đào Tạo tổ chức, được sự hướng dẫn trực tiếp của một số giáo
viên nước ngoài tôi học hỏi được rất nhiều ở họ từ phong thái đứng lớp, đến
cách sử dụng một số phương pháp giảng dạy một cách tự nhiên, nhẹ nhàng
nhưng đạt hiệu quả cao.
Được sự hỗ trợ tích cực từ Ban giám hiệu và giáo viên chủ nhiệm luôn
đôn đốc khích lệ tinh thần của học sinh.
Bên cạnh đó, cũng còn có phụ huynh học sinh có quan tâm đến việc học
của con em mình, vì vậy luôn tạo điều kiện tốt cho các em trong học tập.

GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang

14


Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016

Trường TH Nguyễn Thị Hạnh

b. Tồn tại:
 Học sinh:
Còn một số bộ phận học sinh thiếu tự tin khi nói Tiếng Anh trước lớp.

cho học sinh tiếp thu bài nhanh và nhớ lâu.
Giáo viên khuyến khích học sinh mạnh dạn phát biểu trong giờ học. Khi
học sinh phát âm sai giáo viên nhẹ nhàng sửa lỗi, không cáu gắt, khó chịu,
không dồn ép kiến thức khi các em căng thẳng.
Giới thiệu, tuyên dương, khen thưởng những học sinh có tiến bộ trong học
tập cũng như biết giúp đỡ bạn cùng tiến.
Sửa chữa kịp thời những sai sót của học sinh, động viên giúp đỡ những
em nói chưa tốt.
Bản thân giáo viên phải tự rèn luyện nâng cao tay nghề để truyền đạt kiến
thức cho các em ngày càng phong phú hơn.
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang

15


Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016

Trường TH Nguyễn Thị Hạnh

3. Kiến nghị:
Đây là một vài ý kiến nhỏ của tôi về việc phát triển kỹ năng giao tiếp
Tiếng Anh ở ở khối lớp 3-4-5 trường Tiểu Nguyễn Thị Hạnh năm học 20152016 và đạt kết quả chuyển biến rõ rệt . Đó cũng là ý kiến chủ quan của cá nhân
tôi nên không tránh khỏi những hạn chế . Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến,
trao đổi từ đồng chí, đồng nghiệp và các chuyên viên viên để bản thân tôi ngày
một tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn và đề tài đạt hiệu quả cao nhất góp phần vào
công cuộc giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, để tiếng Nước Ngoài đến gần với các
em, thâm nhập vào cuộc sống và trở thành công cụ giao tiếp hữu hiệu và đắc lực
. Qua đó, tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm giảng dạy và nghệ thuật dạy
học đạt kết quả cao nhất đáp ứng được yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện
nay . Đó phải chăng là chúng ta đã thực hiện được cái gọi là “ Giáo dục kỹ thuật

Trường TH Nguyễn Thị Hạnh

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọ đề tài ......................................................

1

1. Đặt vấn đề . ...........................................................

1

2. Mục đích đề tài ........................................................

2

3. Lịch sử đề tài . ..........................................................

2

4. Phạm vi đề tài. .......................................................

3

PHẦN NỘI DUNG
II. Nội dung

3

1 . Thực trạng đề tài . .................................................

18




Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status