Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn ODA vào phát triển đường sắt đô thị ở việt nam - Pdf 37

1

1

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG


2

2


3

3

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc sử dụng phương tiện giao thông cá nhân đang tạo áp lực lên hệ thống hạ
tầng giao thông và đô thị hiện nay tại nước ta, đặc biệt là tại các đô thị lớn như Hà Nội
và TP. Hồ Chí Minh. Tính đến năm 2014 cả nước có 39 triệu xe máy, 2.2 triệu ô tô các
loại và gần 70 nghìn xe máy được đăng ký mới hàng quý (UBANGTQG, 2014), số
phương tiện cá nhân đã vượt quá quy hoạch đến năm 2020.
Hiện tượng tắc nghẽ giao thông xảy ra rất phổ biến tại các đô thị lớn như Hà Nội
và TP. Hồ Chí Minh gây nhiều thiệt hại về kinh tế và môi trường. Tính riêng cho Hà
Nội thiệt hại do tiêu hao nhiên liệu và công lao động do tắc nghẽn giao thông lên đến
600 triệu USD/năm (Phan Duy Toàn, 2012) và thải ra hàng ngàn tấn CO2 vào không
khí (Nguyễn Nga, 2012). Ngoài ra tắc nghẽn giao thông còn có tác động xấu đến sức

Các nghiên cứu về hiệu quả ODA đối với nền kinh tế các nước đang phát triển
cho thấy ODA có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế (Durbarry, 2010; Driffield,
2006; Mohey ud-din, 2005). Bên cạnh đó cũng có nghiên cứu lại chỉ ra việc đầu tư
ODA chỉ là việc phân chia tài sản của người nghèo tại các quốc gia giàu có sang người
giàu tại các nước nghèo (Bauer, 1972). Tuy nhiên mọi người đều có cách nhìn lạc
quan về giá trị mà ODA mang lại (Stern, 1974). Tại Việt Nam các nghiên cứu về ODA
hiện nay chủ yếu tập trung việc tìm kiếm giải pháp thu hút vốn ODA và các đánh giá
hiệu quả dự án sử dụng ODA (Phạm Thị Túy, 2007; Nguyễn Minh Hải, 2009; Phạm
Hồng Thái, 2011) hay các đánh giá kinh nghiệm quản lý ODA từ các nước (Vương
Thanh Hà, 2009). Đặc điểm chung của các nghiên cứu tại Việt Nam là những đánh giá
kinh nghiệm, phân tích những thực trạng và đề ra xuất giải pháp cho việc thu hút và
nâng cao hiệu quả sử dụng ODA.
Mặc dù các nghiên cứu cho thấy việc sử dụng ODA một cách hợp lý có tác động
tích cực đối với nền kinh tế của các quốc gia đang phát triển (WB). Tuy nhiên các
nghiên cứu trên thế giới chủ yếu đánh giá một cách tổng thể ảnh hưởng của ODA tới
nền kinh tế (Hansen & Tarp, 2001; Karras, 2006; Adam & Asu, 2014). Các nghiên cứu
tại Việt Nam chủ yếu là những đánh giá, nhận định về việc thu hút và sử dụng ODA
(Phạm Thị Túy, 2007; Nguyễn Minh Hải, 2009, Vương Thanh Hà, 2009) và chủ yếu
sử dụng các phương pháp định tính mà thiếu các nghiên cứu định lượng. Hiện tại theo
khảo sát của tác giả chưa có một nghiên cứu nào tại Việt Nam đánh giá các nhân tố
ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng ODA cho các dự án, trong đó có dự án về đường sắt
đô thị bằng các phương pháp định lượng. Do đó tác giả quyết định lựa chọn đề tài
“Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn ODA vào phát triển đường sắt
đô thị ở Việt Nam“ làm nghiên cứu cho luận án tiến sỹ của nghiên cứu sinh.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả sử dụng vốn ODA, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA vào
phát triển đường sắt đô thị tại Việt Nam.


Về nội dung luận án đi sâu vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử
dụng vốn ODA vào phát triển đường sắt đô thị tại Việt Nam, đi sâu phân tích các dự
án đường sắt đô thị tại Hà Nội. Cụ thể luận án chỉ tập trung vào việc phân tích ảnh
hưởng của các nhân tố tới hiệu quả sử dụng vốn ODA ở khía cạnh triển khai dự án.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Hiệu quả sử dụng vốn ODA vào phát triển đường sắt đô thị tại Việt

Nam (thông qua nghiên cứu trường hợp các dự án tại Hà Nội).
- Về thời gian: Đánh giá thực trạng triển khai các dự án đường sắt đô thị tại Hà Nội

đã và đang triển khai trong giai đoạn 2010 – 2015, khảo sát điều tra thực hiện trong
năm 2015.


6

6
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với phương pháp
định lượng để tập trung phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả sử dụng vốn
ODA vào phát triển đường sắt đô thị tại Hà Nội. Các nghiên cứu định tính được sử
dụng để khám phá, phát triển mô hình và giải thích sâu hơn cho kết quả nghiên cứu
định lượng. Nghiên cứu định lượng được sử dụng để kiểm chứng các giả thuyết nghiên
cứu và tính tin cậy của nghiên cứu (chi tiết xem tại chương 2).
6. Đóng góp mới của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án đem lại những đóng góp cả về mặt học thuật và
thực tiễn.
Về mặt học thuật, nghiên cứu đã xác định được khoảng trống nghiên cứu về sự
thiếu vắng các mô hình đánh giá hiệu quả dự án ở khía cạnh triển khai cho các dự án.


8

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC
(ODA) VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
ODA VÀO PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG SẮT ĐÔ THỊ
Một số vấn đề lý luận về hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
1.1.1
Khái niệm về ODA
1.1

Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA: Official Develoment Assistance) là
nguốn vốn vay hỗ trợ các nước kém phát triển và đang phát triển để phát triển kinh tếxã hội, trong đó phần vốn viện trợ không hoàn lại tối thiểu là 25%.
Lịch sử phát ra đời của nguồn vốn vay ODA bắt đầu sau chiến tranh thế giới thứ
hai. Để hỗ trợ đồng minh của mình tái thiết đất nước Mỹ thực hiện kế hoạch Marshall
hỗ trợ các nước đồng minh sau chiến tranh (Fuhrer, 1993). Đến những năm 1970 Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc đề nghị các nước tài trợ dành ra một khoản 0.7% GNP để tạo
nguồn viện trợ cho các nước nghèo. Ngày nay, ODA đã trở thành một nguồn tài trợ
lớn cho nhiều nước nghèo, các nước đang phát triển.
Nghiên cứu về ODA đã được thực hiện bởi nhiều nhà nghiên cứu và mỗi tổ chức
đưa ra định nghĩa về ODA không thống nhất với nhau. Điểm thống nhất với nhau giữa
các định nghĩa là về mức hỗ trợ không hoàn lại tối thiểu là 25% mới được gọi là ODA.
Đầu thập niên 1970, OECD đưa ra định nghĩa đầu tiên về ODA như sau “ODA là một
giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi
và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25%”(OECD, 1972). Ngân hàng
thế giới (WB) định nghĩa “ODA là một phần của tài chính phát triển chính thức,
trong đó có chủ yếu tố viện trợ không hoàn lại cộng với cho vay ưu đãi và phải
chiến ít nhất 25% trong tổng viện trợ thì gọi là ODA” (WB, 2001). Tại Việt Nam

hỗ trợ. Do có tính chất đầu tư nên các nguồn vốn vay ODA thường được sử dụng vào các
mục đích sau:
(1) Điều chỉnh hoàn thiện cơ cấu kinh tế. Đối với những nước kém phát triển
nguồn vốn ODA có thể được sử dụng đề bù đắt cho thâm hụt cán cân thanh
toán quốc tế. Điều này giúp cho việc quản lý ngân sách trong giai đoạn cải cách
hệ thống tài chính hay chuyển đổi hệ thống kinh tế tốt hơn.
(2) Tăng nguồn vốn trong nước để chính phủ các nước kém phát triển, đang phát
triển có thể thực hiện các chương trình đầu tư quốc gia, đặc biệt là hệ thống đầu
tư cơ sở hạ tầng kinh tế tạo tiền đề cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo
hiệu ứng cho các khu vực vốn tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển.
(3) Cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân các nước kém phát triển và đang
phát triển thông qua các chương trình hỗ trợ giảm nghèo, cải cách giáo dục, y
tế, bảo vệ môi trường, vv.
(4) Trợ giúp chính phủ các nước nhận hỗ trợ thực hiện các chương trình nghiên
cứu tổng hợp nhằm hoạch định chính sách hay cung cấp thông tin cho đầu tư tư
nhân qua điều tra khảo sát, đánh giá tình hình kinh tế - xã hội ở nước tiếp nhận
ODA.
Nhìn chung, ODA có tính chất đầu tư nhưng không sinh lời trực tiếp trong ngắn
hạn mà hướng tới các mục tiêu có tính chất dài hạn, khả năng thu hồi vốn chậm nhưng
có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường cho sự phát triển của các khu vực
đầu tư khác, tăng cường sự hợp tác giữa nước cấp vốn ODA và nước tiếp nhận ODA..
Thứ hai vốn ODA thường kèm theo lợi ích chiến lược và chính trị ngắn hạn từ


10

10

phía nhà tài trợ. Ngoài các mục tiêu hỗ trợ các nước đang phát triển việc cung cấp
ODA của các nước và tổ chức còn có những mục đích riêng khác như (i) lợi ích kinh

phải hoàn trả cho bên tài trợ. Có thể coi viện trợ không hoàn lại như một nguồn thu
của ngân sách Nhà nước, được sử dụng theo hình thức Nhà nước cấp phát lại cho các
nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Viện trợ không hoàn lại chiếm
khoảng 25% trong tổng số vốn ODA trên Thế giới. Viện trợ không hoàn lại thường
được thực hiện dưới các dạng: Hỗ trợ kỹ thuật và viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
ODA vay ưu đãi: Nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền, với các điều
kiện ưu đãi về lãi suất (thấp hơn lãi suất thị trường), thời gian ân hạn và thời gian trả


11

11

nợ; hoặc không chịu lãi mà chỉ chịu chi phí dịch vụ. Vay ưu đãi chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng số vốn vay ODA trên Thế giới, là nguồn thu phụ thêm để bù đắp thâm hụt
ngân sách Nhà nước.
ODA vay hỗn hợp: Là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu
đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại.
Nhìn chung hiện nay các nước cung cấp ODA đang có chiều hướng giảm viện trợ
không hoàn lại; tăng hình thức tín dụng ưu đãi và ODA hỗn hợp.

1.1.3.2 Phân loại theo nguồn cung cấp
ODA song phương: Là các khoản tài trợ phát triển chính thức từ nước này cho
nước kia (nước phát triển cho nước đang hoặc kém phát triển) thông qua Hiệp định
được ký kết giữa hai Chính phủ. Trong tổng số ODA lưu chuyển trên thế giới, phần tài
trợ song phương chiếm tỷ trọng lớn, có khi lên tới 80%, lớn hơn nhiều so với tài trợ đa
phương.
ODA đa phương: Là các khoản tài trợ phát triển chính thức của một số tổ chức
tài chính quốc tế và khu vực như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới
(WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), …; hoặc các tổ chức phát triển của Liên

phòng. Trị giá vốn của các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường không lớn.

1.1.3.4 Phân loại theo điều kiện ODA
Theo điều kiện ODA được chi thành 3 loại: ODA không ràng buộc; ODA có
ràng buộc (gồm ODA ràng buộc bởi nguồn sử dụng và ODA ràng buộc bởi mục đích
sử dụng) và ODA ràng buộc một phần.

1.1.4 Các nguồn cung cấp ODA trên thế giới
ODA trên thế giới được cung cấp chủ yếu theo hai dạng song phương và đa
phương:

1.1.4.1 Các đối tác cung cấp ODA song phương
Các đối tác cung cấp ODA song phương chủ yếu bao gồm các nước công nghiệp
phát triển thuộc DAC, các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), ODA song phương còn
được cung cấp bởi Liên Xô và một số nước Đông Âu khác. Tại Việt Nam, trong những
năm trở lại đây nguồn cấp ODA được cấp chủ yếu từ Nhật Bản. Trong năm 2014 các
nhà tài trợ lớn bao gồm: Nhật Bản (JICA) hơn 1,770 tỷ USD, Ngân hàng Thế giới
(WB) gần 1,390 tỷ USD, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) 1,058 tỷ USD (Bộ tài
chính, 2015).

1.1.4.2 Các đối tác cung cấp ODA đa phương
Bên cạnh việc cung cấp ODA song phương, ODA còn được chuyển giao thông
qua các tổ chức viện trợ đa phương bao gồm: Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ:
gồm Ủy ban châu Âu (EC) và các tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc; Các định chế tài
chính và các quỹ gồm: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB),…; Các tổ chức phi chính phủ (NGOs như Greenpeace,
Amnesty International, Human Rights Watch, Oxfam, Tổ chức chữ thập đỏ và lưỡi


13

đó, một lượng ODA khá lớn cũng được dành cho các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế,
đảm bảo sức khoẻ cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước đang
phát triển đã gia tăng đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình.
Thứ ba, ODA giúp các nước kém phát triển và đang phát triển thực hiện việc xóa
đói, giảm nghèo. Xoá đói nghèo là một trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài
trợ quốc tế đưa ra khi hình thành phương thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu
này biểu hiện tính nhân đạo của ODA. Trong bối cảnh sử dụng có hiệu quả, tăng ODA
một lượng bằng 1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ, và giảm 0,9% tỷ lệ tỷ vong ở trẻ
sơ sinh. Và nếu như các nước giàu tăng 10 tỷ USD viện trợ hằng năm sẽ cứu được 25
triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo.
Thứ tư, nguồn vốn ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân
thanh toán quốc tế của các nước kém phát triển và đang phát triển. Đa phần các nước


14

14

kém phát triển và đang phát triển rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, gây bất
lợi cho cán cân thanh toán quốc tế của các quốc gia này. ODA, đặc biệt các khoản trợ
giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp
nhận, từ đó ổn định đồng bản tệ.
Thứ năm, nguồn vốn ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn lực bổ
sung cho đầu tư tư nhân. Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng
vai trò như nam châm “hút” đầu tư tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện
trợ. Đối với những nước đang trong tiến trình cải cách thể chế, ODA còn góp phần
củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc đổi mới của Chính phủ. Tuy
nhiên, không phải lúc nào ODA cũng phát huy tác dụng đối với đầu tư tư nhân. Ở
những nền kinh tế có môi trường bị bóp méo nghiêm trọng thì viện trợ không những
không bổ sung mà còn “loại trừ” đầu tư tư nhân. Điều này giải thích tại sao các nước

15

15

Hiệu quả là việc sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu một cách tối ưu.
Các khái niệm liên quan đến hiệu quả tập trung vào việc so sánh giữa lợi ích và chi
phí. Đối với các dự án sử dụng vốn ODA cũng vậy, hiệu quả của dự án là tương quan
giữa lợi ích thu được từ dự án và các chi phí bỏ ra của dự án. Trong thực tế hạch toán
lợi ích và chi phí thường được tính toán là các lợi ích và chi phí có tính chất tài chính.
Tuy nhiên, với các dự án ODA có đặc điểm nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, thúc
đẩy phát triển kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội nên các lợi ích và chi phí có tính chất
tài chính không phải là chỉ tiêu phản ánh đầy đủ tính hiệu quả của dự án. Hiệu quả của
dự án ODA là hiệu quả về tổng thể lợi ích xã hội đạt được với chi phí bỏ ra để thực
hiện dự án.
Các nhà nghiên cứu trong kinh doanh đưa ra quan điểm về hiệu quả là việc đạt
được các mục tiêu chiến lược không thuần túy là kết quả tài chính.Quan niệm về hiệu
quả này được xuất phát các nhà nghiên cứu cho rằng hiệu quả là việc đạt được các
mục tiêu, kết quả được đánh giá dựa trên mức độ đạt được các mục tiêu hay không
(Buzzell & Gale, 1987, Cyer & March, 1992; Hult và cộng sự, 2004, Keh và cộng sự,
2007). Theo đó, hiệu quả là kết quả đạt được các mục tiêu chiến lược đặt ra trong
tương quan với giới hạn về ngân sách (chi phí), thời gian thực hiện.
Đối với các dự án ODA có tính chất xã hội hơn là các hiệu quả tài chính nên
trong luận án này tác giả cũng quan niệm là hiệu quả dự án là việc đạt được các mục
tiêu chiến lược đặt ra. Trong một dự án ODA có nhiều bộ phận tham gia từ chủ đầu
tư, nhà thầu tư vấn, nhà thầu giám sát, nhà thầu thi công và mỗi bộ phận có những
mục tiêu khác nhau. Ở khía cạnh điều hành dự án, triển khai dự án có thể xem hiệu
quả dự án là hiệu quả của từng bộ phận. Hiệu quả của cả dự án là hiệu quả tổng thể
của từng bộ phận tham gia vào quá trình triển khai dự án. Đối với các dự án phát
triển cơ sở hạ tầng hiệu quả dự án được thể hiện qua ba khía cạnh chủ yếu (1) chất
lượng; (2) chi phí và (3) tiến độ. Ngoài ra còn có thể có những mục tiêu cụ thể khác

chỉ tiêu về chi phí dự án như khả năng chuyển vốn, chi phí theo dự toán; các chỉ
tiêu tài chính của dự án dựa trên giả định về nguồn chi và thu khi kết thúc và đưa
dự án vào khai thác (NPV, IRR, B/C);(3) các chỉ tiêu liên quan đến thời gian thực
hiện và khai thác của dự án như tiến độ thực hiện từng phần dự án, chu kỳ khai thác
dự án khi đưa vào hoạt động.
Các chỉ tiêu định tính bao gồm các chỉ tiêu về hiệu quả xã hội như : (1)Mức độ
phù hợp của nhu cầu xã hội đối với dự án; (2) tính bền vững khi thực hiện dự án;
(3)mức độ tác động tới vấn đề an sinh, phúc lợi xã hội; (4) tác động tới môi trường,...
Trong luận án này, đứng ở khía cạnh nghiên cứu về hiệu quả dự án trong quá
trình triển khai các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dự án được tập trung vào các nhóm
(1)chất lượng công việc khi tham gia dự án;(2) Chi phí cho từng công việc khi tham
gia dự án; (3) Tiến độ thực hiện công việc khi tham gia dự án và (4) các mục tiêu
chiến lược khác của từng đơn vị tham gia dự án.

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ODA
Hiệu quả sử dụng vốn ODA chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Tùy vào
góc độ đánh giá có thể thấy hiệu quả ODA được xem ở cả khía cạnh quản lý chung
(quản lý vĩ mô) và khía cạnh của từng dự án. Trong luận án này tác giả giới thiệu cả
hai nhóm nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng ODA nhưng tập trung nhiều hơn
vào các khía cạnh của hiệu quả của dự án với định nghĩa về hiệu quả là việc đạt được
mục tiêu chiến lược đặt ra, hiệu quả dự án là hiệu quả tổng hợp của từng bộ phận tham
gia vào quá trình triển khai dự án.

1.3.1 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ODA ở khía cạnh vĩ mô
Ở khía cạnh vĩ mô hiệu quả sử dụng vốn ODA cũng được xem như việc đạt được
các mục tiêu đặt ra. Cũng có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới việc sử dụng ODA nói
chung. Trong luận án này tác giả đi sâu phân tích một số nhóm yếu tố chính bao gồm
(1) Điều kiện phát triển kinh tế của nước tiếp nhận; (2) Môi trường chính sách liên
quan đến ODA; (3) Khả năng quản lý của hệ thống bộ máy nhà nước và (4) Môi


điều chỉnh các hoạt động liên quan đến vốn ODA. Ngoài ra còn có hệ thống hành chính
của các cơ quan công quyền trong nước, sự đồng bộ về cơ chế phối hợp giữa các bộ phận
tham gia thu hút, quản lý, sử dụng vốn ODA của nước tiếp nhận.
Khả năng quản lý của hệ thống bộ máy nhà nước đối với các dự án ODA: Khả năng
quản lý hệ thống bộ máy cũng là một nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả
sử dụng nguồn vốn ODA của các dự án nói chung. Khả năng quản lý của hệ thống bộ
máy nhà nước phụ thuộc vào hai khái cạnh chính là (1) các nhân tố con người và (2)
hệ thống cơ sở vật chất dành cho dự án. Đối với các nhân tố liên quan đến con người
có thể bao gồm các khía cạnh về kiến thức quản lý, năng lực chuyên môn phù hợp như
được đào tạo chuyên môn thích hợp cho từng dự án, kỹ năng và kinh nghiệm làm
việc, đạo đức nghề nghiệp, thái độ chuyên nghiệp với công việc, tính hợp tác và
khả năng phối hợp thực hiện công việc, vv. Đối với các nhân tố về hệ thống cơ sở
vật chất cũng có ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng ODA cho từng dự án như hệ thống
trang thiết bị làm việc, giám sát, kiểm tra đối với chất lượng công việc của từng bộ
phận.
Môi trường văn hóa, điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng: Môi trường văn hóa, điều
kiện tự nhiên và hệ thống cơ sở hạ tầng cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn
ODA của các dự án. Các khía cạnh thuộc về văn hóa như các tập quán, thuộc tính văn
hóa đặc trưng của dân cư có thể tác động tiêu cực hay tích cực đến các dự án sử dụng
ODA. Điều kiện tự nhiên như các nguồn tài nguyên sử dụng cho dự án, mức độ sẵn có


18

18

của các nguồn nguyên liệu tự nhiên hay đặc trưng về địa lý, địa hình cũng ảnh hưởng
tới hiệu quả sử dụng vốn ODA khi thực hiện các dự án. Hệ thống cơ sở hạ tầng như
mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cấp thoát nước hay các cơ
sở cung cấp dịch vụ công cộng cũng là một yếu tố cần tính đến khi tính toán hiệu quả

đảm bảo như kế hoạch ban đầu: tiền chi trả cho nhân sự cũng được duy trì ổn định
tránh tình trạng nợ lương dẫn đến trì trệ tiến độ dự án; dòng tiền ổn định sẽ làm cho


19

19

hệ thống từ điều hành tới thi công được triển khai một cách thuận lợi, không gặp khó
khăn về vấn đề liên quan đến chi phí về nguyên vật liệu dự án hay là tiến độ giả
phóng mặt bằng của dự án ODA. Các nghiên cứu trong kinh doanh cho thấy năng lực
tài chính có ảnh hưởng tới kết quả của tổ chức (Baral, 2005; Kouser và cộng sự,
2011). Cũng giống như vậy đối với dự án ODA thì năng lực tài chính của dự án cũng
là một nhân tố đảm bảo tính hiệu quả của dự án.
(2) Khả năng tổ chức: Khả năng tổ chức là khả năng phối hợp, gắn kết các hoạt động để

triển khai và thực hiện và đạt được các mục tiêu đặt ra. Chất lượng tổ chức, phối hợp
được xem là một yếu tố ảnh hưởng tới kết quả thực hiện (Becker & Gerhart, 1996;
Huselid, 1995). Ngoài ra chất lượng kết nối các hoạt động cũng có ảnh hưởng tới kết
quả thực hiện (Walter, Auer & Ritter, 2006). Năng lực tổ chức còn có tác động tới
việc quản trị khủng hoảng (Grewal & Tansuhaj, 2001). Đối với một dự án ODA khả
năng tổ chức từ ban đầu sẽ giúp cho việc thực hiện các mục tiêu và kế hoạch diễn ra
thuận lợi. Trong suốt quá trình vận hành của dự án năng lực tổ chức cũng có ảnh
hưởng tới kết quả thực hiện.Ngoài ra, khả năng tổ chức còn có thể sử dụng các
nguồn lực một cách có hiệu quả nhất, giảm thiểu được những sai sót và lãng phí
trong điều hành cũng như thi công dự án.
(3) Năng lực điều hành: Năng lực điều hành là khả năng chỉ đạo của các lãnh đạo cấp

trên đối với cấp dưới. Việc điều hành tốt của lãnh đạo sẽ truyền cảm hứng cho nhân
viên, nhân viên biết làm như thế nào là tốt nhất và có thể đẩy nhanh tiến độ thực hiện

dạng lại các nguồn lực của mình dể đáp ứng những thay đổi của môi trường (Gibson
& Birkinshaw, 2004; Sapienza và các cộng sự, 2006; Zhou & Li, 2010). Đối với
doanh nghiệp khả năng thích nghi là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng tới kết
quả kin doanh (Zhou & Li, 2010). Đối với dự án ODA để đạt hiệu quả cũng cần có
khả năng thích với những biến động từ môi trường bên ngoài. Đó có thể là khả năng
ứng phó khi có tình trạng giải ngân chậm, tiến độ hay chất lượng gặp khó khăn. Khả
năng thích ứng tốt sẽ làm cho bộ máy có thể vẫn hoạt động một cách bình thường khi
gặp những thay đổi từ môi trường bên ngoài.
(6) Khả năng quản trị rủi ro: Khả năng quản trị rủi ro là việc dự đoán và ứng phó với các

rủi ro xảy ra khi thực hiện dự án (Ward & Chaman, 2003; Larson & Gray, 2011;
Schoroeder và cộng sự, 2011). Quản trị rủi ro của dự án có thể thực hiện thông qua việc
dự đoán được khả năng xảy ra bất chắc cho dự án, từ đó có các quyết định thực hiện phù
hợp nhằm tránh hoặc giảm thiểu thiệt hại có thể mang lại cho dự án. Ngoài vấn đề dự
đoán rủi ro trong trường hợp chưa xảy ra sự cố, quản trị rủi ro còn được thể hiện qua các
kế hoạch đối phó với các sự cố đã xảy ra, tổ chức chấp nhận rủi ro này và có các cách
khắc phục tối ưu nhất giúp đảm bảo hiệu quả của dự án đang thực hiện.

1.4 Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến luận án
1.4.1 Các nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu của Vũ Thị Kim Oanh (2002) về đánh giá các giải pháp chủ yếu sử
dụng có hiệu quả vốn hỗ trợ phát triển chính thức tại Việt Nam. Trong luận án này tác
giả tập trung vào phân tích tổng quan về ODA, vai trò của ODA, quá trình phát triển
của nguồn vốn ODA trên thế giới. Phân tích của luận án tập trung vào việc đánh giá
thực trạng sử dụng vốn ODA theo hai giai đoạn từ 1975 – 1990 và sau 1990. Tác giả
đã đánh giá được những tồn tại, hạn chế và những mặt làm được trong công tác sử
dụng vốn ODA tại Việt Nam. Tuy nhiên, giống như những luận án trong giai đoạn
này, nghiên cứu mới dừng lại ở khía cạnh đánh giá nghiệp vụ của các cơ quan quản lý



liên quan đến ODA. Về phía nhà tài trợ hài hòa và đơn giản hóa quy trình thủ tục với
chính phủ Việt Nam cũng như cần thiết nhằm đảm bảo tiến trình thực hiện hiệu quả;
(2) Đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án ODA: Cần xây dựng kế hoạch hợp lý cho việc
phân cấp ODA nhằm tránh tình trạng ách tắc trong quá trình triển khai nhiều dự án
ODA; (3) Xây dựng hệ thống thông tin hữu hiệu về ODA: Các thông tin thu được
phải đảm bảo yêu cầu chính xác, đầy đủ và kịp thời; (4) Tăng cường công tác đào tạo
và điều phối bố trí cán bộ trong quản lý và sử dụng ODA: Cần có các chương trình
huấn luyện rộng rãi để tạo ra những thay đổi về nhận thức, thái độ và nâng cao trình
độ cán bộ ở tất cả các cấp từ trung ương xuống địa phương.


22

22

Nghiên cứu của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2010) đánh giá
việc sử dụng ODA cho thấy có 8 nhân tố cần chú ý để thu hút và sử dụng hiệu quả
ODA là (1) Nâng cao nhận thức và hiểu đúng về bản chất của ODA; (2) Sử dụng
ODA có chọn lọc, phù hợp và kết hợp hài hòa với các nguồn đầu tư khác; (3) Đẩy
mạnh tốc độ giải ngân ODA; (4) Tối đa hóa hiệu quả và tốc độ lan tỏa của ODA; (5)
Mở rộng diện thụ hưởng ODA tới khu vực tư nhân để thực hiện các chương trình và
dự án phục vụ các lợi ích cộng đồng; (6) Xây dựng kế hoạch hợp lý cho việc phân
cấp ODA; (7) Tăng cường theo dõi và quản lý ODA; (8) Xây dựng kế hoạch giảm
dần theo thời gian trả nợ ngắn hạn và gắn với điều kiện chặt chẽ.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Vũ (2010) cho rằng các yếu tố để nâng cao hiệu
quả sử dụng ODA tại Việt Nam là: (1) Phải có quan niệm đúng đắn về nguồn vốn
ODA; (2) Luôn tính tới yếu tố trượt giá của đồng VNĐ để thỏa thuận lãi suất cho
phù hợp; (3) Cần khắc phục tính ỷ lại, trông chờ vào nguồn ngân sách nhà nước; (4)
Thu hút đầu tư ODA một cách hợp lý, tránh đầu tư giàn trải, manh mún nhưng cũng
không nên tập trung quá nhiều vào một số địa phương và một số ngành dẫn tới mất


1.4.2 Các nghiên cứu nước ngoài
Đối với các nghiên cứu tại các nước đang phát triển khác các tác giả cũng đưa
ra rất nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng tới việc sử dụng hiệu quả nguồn ODA.
Nghiên của của Hansen & Tarp (2001) về ảnh hưởng của ODA tới tăng trưởng
kinh tế của các nước đang phát triển cho thấy mối quan hệ tích cực giữa viện trợ và
tăng trưởng GDP bình quân. Tuy nhiên nghiên cứu chủ yếu sử dụng chuỗi dữ liệu
thời gian đánh giá tác động ở khía cạnh vĩ mô của nền kinh tế, những tác động này là
tác động tổng hợp mà không xét đến khía cạnh hiệu quả cho từng dự án.
Nghiên cứu của Karras (2006) đánh giá ảnh hưởng dài hạn của ODA với dữ
liệu từ giai đoạn 1960 – 1997 của 71 nền kinh tế trên thế giới cho thấy viện trợ ODA
có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn và thực sự có ý nghĩa
thống kê. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của ODA tới tăng trưởng có sự khác biệt
giữa các nền kinh tế. Đây là một nghiên cứu tốt về đánh giá ảnh hưởng của ODA tới
phát triển kinh tế, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của ODA với các nước kém
phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên, cách tiếp cận của nghiên cứu ở khía cạnh vĩ
mô nên không giúp ích cho việc đánh giá hiệu quả của ODA ở khía cạnh từng dự án.
Nghiên cứu của Chanboreth & Hach (2008) tại Campuchia cho thấy việc nâng
cao hiệu quả sử dụng ODA phụ thuộc vào việc: (1) Cung cấp các dự án rõ ràng, ưu
tiên các dự án chiến lược quốc gia và đảm bảo quy trình ngân sách ODA; (2) Củng
cố và cải cách triệt để quản lý hành chính công nhằm đem lại hiệu quả sử dụng
nguồn vốn ODA một cách triệt để; (3) Ưu tiên đầu tư dự án một cách riêng lẻ không
tập trung tránh chồng chéo gây đến ách tắc triển khai dự án; (4) Thực hiện kế hoạch
thống kê lại các nguồn viện trợ chính phủ nhằm quản lý tốt việc giải ngân cũng như
thực hiện dự án; (5) Đảm bảo việc trao đổi giữa hai bên viện trợ và nhận viện trợ
nhằm nâng cao chất lượng dự án.
Nghiên cứu của Sankar & Schneider (2013) đã có những đánh giá về phương
phướng sử dụng hiệu quả ODA của Nhật Bản tại Lào: Chính phủ Nhật Bản đặc biệt



nghiệp vụ của nhà quản lý có ít tính học thuật.
Thứ ba, một số nghiên cứu đưa ra được các chỉ tiêu cho đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn ODA, tuy nhiên chưa có nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của nó tới hiệu quả
sử dụng vốn ODA ở khía cạnh điều hành dự án như thế nào.
Thứ tư, theo khảo sát của tác giả hiện nay chưa có một nghiên cứu nào xây dựng
được một cách hệ thống mô hình nghiên cứu đánh giá tác động của các nhân tố tới
hiệu quả sử dụng vốn ODA ở khía cạnh điều hành, đặc biệt là đối với những dự án


25

25
đường sắt đô thị.

Đây là những khoảng trống nghiên cứu cần được bổ sung và nghiên cứu này có
nhiệm vụ thiết lập, phát triển và kiểm chứng mô hình đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
ODA ở khía cạnh điều hành thông qua nghiên cứu trường hợp các dự án đường sắt đô
thị tại Việt Nam (Hà Nội).

Tóm tắt chương 1
Chương này tác giả tập trung vào việc hệ thống hóa cơ sở lý luận về ODA, vai
trò, bản chất của ODA, những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng ODA ở cả khía
cạnh vĩ mô và khía cạnh của từng dự án. Tác giả đưa ra một định nghĩa về hiệu quả sử
dụng ODA ở khía cạnh triển khai là việc đạt được các mục tiêu chiến lược của từng bộ
phận tham gia dự án. Đồng thời thông qua phân tích hệ thống các nghiên cứu trước
đây tác giả cũng chỉ ra những khoảng trống nghiên cứu chính mà nghiên cứu này
hướng tới giải quyết. Cụ thể là việc cần thiết phát triển, thiết lập và kiểm chứng một
mô hình đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng ODA ở khía cạnh triển
khai dự án.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status