ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP: ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÙ HỢP - Pdf 36

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG
_______________

LÊ MỸ LINH

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN
SINH HOẠT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH
TUYÊN QUANG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÙ HỢP

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan bài đồ án tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu thực sự của
em và được sự hướng dẫn của Tiến sĩ Hoàng Hải – Cục Thẩm định và Đánh giá tác
động môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Các nôi dung nghiên cứu, kết quả nghiên cứu là của riêng em.
Mọi sự tham khảo sử dụng trong đồ án đều được trích dẫn các nguồn tài liệu
trong báo cáo và danh mục tham khảo
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2016
Sinh viên thực hiện đồ án

Lê Mỹ Linh


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn Tiến Sĩ Hoàng Hải - Cục
Thẩm định và Đánh giá tác động môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường và thầy
giáo: Tiến Sĩ Lê Văn Hưng – Giáo viên khoa Môi trường, Trường Đại học Tài nguyên


CTR

Chất thải rắn

3

CTRSH

Chất thải rắnsinh hoạt

4

DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

5

MTV

Một thành viên

6

SX

Sản xuất

7


TH

Tổng hợp

13

TK

Tập kết

14

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

15

TP

Thành phố


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Thành phần chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị Việt Nam
Bảng 1.2: Lượng chất thải răn sinh hoạt phát sinh ở các đô thị Việt Nam
Bảng 3.1: Các nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt từ hộ gia đình
Bảng 3.2: Lượng CTRSH phát sinh từ các hộ gia đình tại khu vực nghiên cứu
năm 2015


MỞ ĐẦU
Ngày nay, cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật, đời sống người dân không
ngừng nâng cao thì vấn đề môi trường luôn là điểm nổi bật và cần phải quan tâm của
tất cả các nước trên thế giới.
Chất thải là một phần tất yếu của cuộc sống, không một hoạt động nào trong sinh
hoạt hằng ngày không sinh ra chất thải. Xã hội ngày càng phát triển thì số lượng chất
thải ra ngày càng nhiều và dần trở thành mối đe dọa thực sự với đời sống con người.
Ở Việt Nam, nền kinh tế đang trên đà phát triển đời sống của người dân càng
được nâng cao, lượng chất thải phát sinh càng nhiều. Bên cạnh đó thì hệ thống quản lý
thu gom chất thải rắn sinh hoạt chưa thực sự có hiệu quả gây ra tình trạng ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng ở nhiều nơi.
Tuyên Quang một mảnh đất anh hùng, vùng đất của cách mạng đang từng ngày
đổi mới trong tiến trình Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước nói chung và tỉnh
Tuyên Quang nói riêng, sự đổi mới phương thức quản lý và chính sách đầu tư kinh tế
đã tạo điều kiện cho sự ra đời của các khu công nghiệp, khu chế xuất mới, với nhiều
nhà máy, cơ sở sản xuất vừa và nhỏ.Sự phát triển về kinh tế một mặt đã tạo công ăn
việc làm ổn định cho người dân, giúp cải thiện mức sống, chất lượng cuộc sống của
những đứa con vùng kháng chiến năm xưa được nâng lên từng bước, mặt khác đây
cũng là nguy cơ làm suy giảm chất lượng môi trường và tình trạng ô nhiễm môi trường
ngày càng gia tăng. Đòi hỏi cần có sự quản lý phù hợp và sự chung tay giữa cơ quan
quản lý và toàn thể nhân dân trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đảm bảo cho một môi
trương sống Xanh - Sạch - Đẹp. Một trong những nhân tố gây ô nhiễm môi trường
đáng phải quan tâm đó là hoạt động sinh hoạt hàng ngày của con người. Hiện nay do
điều kiện kinh tế còn hạn hẹp nên tỉnh chưa đầu tư được dây truyền công nghệ để xử lý
triệt để các loại chất thải, chủ yếu sử dụng phương pháp xử lý thủ công nên vẫn còn
gây ra các tác động xấu tới môi trường. Vì vậy, việc đánh giá hiện trạng quản lý và
biện pháp giảm thiểu các tác động xấu của chất thải sinh hoạt là vấn đề đang được các
cấp chính quyền quan tâm. Xuất phát từ những tình hình môi trường hiện tại, dựa trên
những kiến thức đã học và dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Tiến sĩ Hoàng Hải em đã

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về chất thải rắn sinh hoạt
1.1.1. Khái niệm
Theo Nguyễn Văn Phước (2010): “Chất thải rắn bao gồm tất cả các chất thải ở
dạng rắn, phát sinh do các hoạt động của con người và sinh vật, được thải bỏ khi chúng


không còn hữu ích hay khi con người không còn muốn sử dụng nữa”. CTR xuất hiện
cùng với các hoạt động sống của con người. Con người để sinh tồn và phát triển đã
khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên trên Trái Đất để phục vụ cho đời sống của
mình, đồng thời thải chất thải rắn. CTR phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt thường
ngày của con người gọi là chất thải rắn sinh hoạt.
1.1.2. Nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt
Rác thải được phát sinh từ các nguồn khác nhau, tùy thuộc vào các hoạt động
mà rác được phân chia thành các loại như hình 1.1 sau:
Khu
dân cư

Khu thương
mại, khách
sạn


quan
công sở

Khu xây dựng
và phá hủy
công trình xây
dựng


Hộ gia đình, biệt thự, Thực phẩm dư thừa (cơm, rau…), bao bì
chung cư
hàng hóa (bằng giấy, gỗ, vải, da, cao su,
nhôm, thủy tinh…), tro, đồ điện tử, vật
dụng hư hỏng (đồ gỗ gia dụng, bóng đèn,
đồ nhựa, thủy tinh…)

Khu thương mại Nhà kho, nhà hàng, chợ, Giấy, nhựa, thực phẩm thừa, thủy tinh,
khách sạn, nhà trọ, các kim loại, chất thải nguy hại
trạm sửa chữa, bảo hành
và dịch vụ
Cơ quan, công Trường học, bệnh viện, Giấy, nhựa, thực phẩm thừa, thuy tinh,
sở
văn phòng cơ quan chính kim loại, chất thải nguy hại.
phủ.
Dịch vụ công Hoạt động dọn rác vệ sinh Rác, cành cây cắt tỉa, chất thải chung tại
cộng đô thị
đường phố, công viên, các khu vui chơi, giải trí, bùn cống
khu vui chơi
rãnh…
(Nguồn: Báo cáo Môi trường quốc gia, 2011)
1.1.4. Tính chất của chất thải rắn sinh hoạt
a. Tính chất vật lý của chất thải rắn sinh hoạt
Những tính chất vật lý quan trọng của CTRSH bao gồm khối lượng riêng, độ ẩm,
kích thước phân loại và độ xốp. Trong đó, khối lượng riêng và độ ẩm là 2 tính chất
được quan tâm nhất trong công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị tại Việt Nam
(Theo Trần Hiếu Nhuệ và cộng sự năm 2010)
Khối lượng riêng: Trong công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt, khối lượng
riêng là thông số quan trọng phục vụ cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất

chuyển hóa sinh học thành khí, các chất rắn vô cơ và hữu cơ khác. Sự tạo mùi hôi và
phát sinh ruồi cũng liên quan đến tính dễ phân hủy của các vật liệu hữu cơ trong chất
thải rắn sinh hoạt đô thị như rác thực phẩm.
1.1.5. Tác động của chất thải rắn sinh hoạt
a. Tác độngcủa CTRSH đến môi trường đất


Đối với rác thải không phân hủy như nhựa, cao su, sành sứ, thủy tinh… nếu
không có giải pháp thích hợp sẽ dẫn đến nguy cơ thoái hóa và giảm độ phì của đất.
Các chất thải rắn được tích lũy trong đất theo thời gian dài gây ra nguy cơ tiềm ẩn
đối với môi trường. Các chất thải kim loại, đặc biệt là các kim loại nặng như chì, kẽm,
đồng, niken,cadimi… tích tụ trong đất và gây hiệu ứng tích lũy theo thời gian, xâm
nhập vào cơ thể con người qua các chuỗi thức ăn. Các chất thải gây ô nhiễm đất ở mức
độ lớn là các chất tẩy rửa, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc nhuộm, chất thải của
các ngành công nghiệp hóa chất…
Trong thành phần rác thải có chứa nhiều các chất độc, do đó khi rác thải được đưa
vào môi trường thì các chất độc xâm nhập vào đất sẽ tiêu diệt nhiều loại sinh vật có ích
cho đất như: giun, vi sinh vật, nhiều loài động vật không xương sống, ếch nhái… làm
cho môi trường đất bị giảm tính đa dạng sinh học và phát sinh nhiều sâu bọ phá hoại
cây trồng. Đặc biệt hiện nay sử dụng tràn lan các loại túi nilon trong sinh hoạt và đời
sống, khi xâm nhập vào đất cần tới 50 - 60 năm mới phân hủy hết và do đó chúng tạo
thành các “bức tường ngăn cách” trong đất hạn chế mạnh đến quá trình phân hủy, tổng
hợp các chất dinh dưỡng, làm cho đất giảm độ phì nhiêu, đất bị chua và năng suất cây
trồng giảm sút.
b. Tác động của CTRSH đến môi trường nước
Các chất thải rắn, nếu là chất hữu cơ, trong môi trường nước nó sẽ bị phân hủy
một cách nhanh chóng. Phần lớn nổi trên mặt nước sẽ có quá trình khoáng hóa chất
hữa cơ để tạo thành các sản phẩm trung gian và sau đó là những sản phẩm cuối cùng là
nước và chất khoáng. Phần chìm trong nước sẽ có quá trình phân giải yếm khí để tạo ra
các sản phẩm trung gian, sau đó các sản phẩm cuối cùng là: CH 4, H2S, H2O, CO2. Tất

Rác sinh hoạt với thành phần hữu cơ chiếm từ 30 ÷ 70%, trong điều kiện ẩm ướt của
các vùng nhiệt đới là môi trường tốt cho các vi sinh vật phát triển. Các loại vi trùng gây
bệnh thực sự phát huy tác dụng khi có các vật chủ trung gian gây bệnh tồn tại trong các
bãi chôn lấp như những ổ chứa chuột, ruồi, muỗi,… và nhiều loại ký sinh trùng gây
bệnh cho người và gia súc, một số bệnh điển hình do các trung gian truyền bệnh như:
chuột truyền bệnh dịch hạch, bệnh sốt vàng da do xoắn trùng, ruồi, gián truyền bệnh
đường tiêu hóa, muỗi truyền bệnh sốt rét, sốt xuất huyết…


Trong thành phần rác thải sinh hoạt, trông thường hàm lượng hữu cơ chiếm tỉ lệ
lớn. Loại rác này rất dễ bị phân hủy, lên men, bốc mùi hôi thối, Rác thải không được
thu gom, tồn đọng trong không khí, lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe con người
sống xung quanh. Chẳng hạn, những người tiếp xúc thường xuyên với rác như những
người làm công việc thu nhặt các phế liệu từ bãi chôn lấp dễ mắc các bệnh như viêm
phổi, sót rét, các bệnh về mắt, tai, mũi, họng, ngoài da, phụ khoa. Hàng năm, theo tổ
chức Y tế thế giới, trên thế giới có 5 triệu người chết và có gần 40 triệu trẻ em mắc các
bệnh có liên quan tới rác thải.
e. Tác động đến cảnh quan môi trường
Chất thải rắn nếu không được thu gom và xử lý đúng cách sẽ gây ô nhiễm đối với
môi trường, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng và làm mất mỹ quan đô thị.
Hiện nay, tình trạng người dân vứt rác bừa bãi ra lòng lề đường và mương rãnh
hở vẫn còn phổ biến gây ô nhiễm nguồn nước và ngập úng khi mưa. Rác thải không
được đổ thải và xử lý đúng nơi quy định ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa, cảnh quan
danh lam thắng cảnh. Đồng thời cũng tạo ra nếp sống không văn minh, lịch sự, ảnh
hưởng đến sự phát triển bền vững của cộng đồng địa phương.
1.2. Tình hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt các nước trên thế giới và ở Việt
Nam
1.2.1. Tình hình quản lý CTRSH các nước trên thế giới
a. Tình hình phát sinh
Theo Ngân hàng Thế giới, các khu vực đô thị của châu Á mỗi ngày phát sinh

lý chất thải của Cộng đồng châu Âu.
Chỉ thị số 1999/31/EC về bãi chôn lấp đã có tác động trực tiếp tới công tác quản
lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị. Chỉ thị này nêu rõ kể từ năm 2006 cần phải giảm dần
lượng chất thải có khả năng phân hủy sinh học đưa tới bãi chôn lấp. Các nước thành
viên sẽ phải thực hiện việc phân loại chất thải sinh hoạt tại nguồn, hoặc là xây dựng
các nhà máy phân loại chất thải để tách phần chất thải có khả năng phân hủy sinh học
ra khỏi chất thải rắn sinh hoạt đô thị. Hoặc xử lý sơ bộ phần chất thải còn lại.
Tại Đan Mạch và Hà Lan, luật cấm chôn lấp chất thải rắn đô thị đã được áp dụng.
Tuy vậy, một phần chất thải rắn đô thị, chất thải sinh khối, vẫn được chôn lấp tại Đan
Mạch và điều này cũng xảy ra tại Hà Lan do các lò đốt kết hợp không đủ khả năng xử


lý. Luật cấm chôn lấp chất thải được áp dụng từ năm 2005 ở tại Đức và Áo. Tại Thụy
Điển. luật cấm chôn lấp thành phần chất thải được áp dụng từ năm 2002.
Đối với các nước Châu Á, chôn lấp chất thải vẫn là phương pháp phổ biến vì chi
phí rẻ. Trung Quốc và Ấn Độ có tỷ lệ chôn lấp tới 90%. Tuy vậy, các nước đang phát
triển đã có nỗ lực cải thiện chất lượng các bãi chôn lấp, như Thổ Nhĩ Kỳ đã cấm các
bãi đổ hở năm 1991 và Ấn Độ đã hạn chế chôn lấp các loại chất thải khó phân hủy sinh
học, chất thải trơ, và các loại chất thải có thể tái chế. Tại các khu đô thị mới của Nhật
Bản và Hàn Quốc, việc thu gom và phân loại CTR sinh hoạt tại các nhà cao tầng do các
gia đình đưa đến điểm tập kết ở mỗi khu nhà theo giờ quy định. Hàng tuần các Công ty
quy định ngày thu chất thải vô cơ riêng, chất thải hữu cơ riêng. Vì vậy, khi ý thức
người dân cao, các khu nhà cao tầng không cần xây dựng hệ thống thu gom rác mà ở
mỗi khu đô thị cứ 2 đến 3 dãy nhà chung cư cao tầng thiết kế một điểm tập kết thu gom
CTR là hợp lý.
Hàn Quốc và Nhật Bản là những nước phát triển, công tác quản lý môi trường đã
đi vào nề nếp, hàng năm Chính phủ, chính quyền địa phương vẫn rất quan tâm tới định
hướng chiến lược phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường. Nhà nước định
hướng và quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp môi trường (quy hoạch định
hướng phát triển các nhà máy tái chế, tái sử dụng với sự bảo hộ về phân vùng lãnh thổ

TP. Đà Nẵng

805

TP. Huế và huyện lỵ

225

Quảng Nam

298

Bắc Trung Bộ và Duyên hải
miền Trung
Khánh Hòa

486

Đô thị loại 1

Đăk Nông

69

Lâm Đồng

459

Tây ninh



nguy hại công nghiệp và các nguồn chất thải y tế nguy hại ở các đô thị tuy chiếm tỷ lệ
ít nhưng chưa được xử lý triệt để vẫn còn tình trạng chôn lấp với CTRSH đô thị.
Tính theo vùng địa lý (hay vùng phát triển kinh tế - xã hội) thì các đô thị vùng
Đông Nam Bộ có lượng CTRSH phát sinh lớn nhất tới 2.450.245 tấn/năm (chiếm
37,94% tổng lượng phát sinh CTRSH các đô thị loại III trở lên của cả nước), tiếp đến
là các đô thị vùng Đồng bằng sông Hồng có lượng phát sinh CTRSH đô thị là
1.622.060 tấn/năm (chiếm 25,12%). Các đô thị khu vực miền núi Tây Bắc Bộ có lượng
phát sinh CTRSH đô thị thấp nhất chỉ có 69.350 tấn/năm (chiếm 1,07%), tiếp đến là
các đô thị thuộc các tỉnh vùng Tây Nguyên, tổng lượng CTRSH phát sinh lớn nhất là
237.350 tấn/năm (chiếm 3,68%).

Bảng 1.3: Lượng CTRSH đô thị theo vùng địa lý ở Việt Nam
STT

Đơn vị hành chính

Lượng CTRSH
bình quân trên
đầu người
(kg/người/ngày)
0,81

Lượng CTRSH đô thị phát sinh
Tấn/ngày

Tấn/năm

4.444


0,66

755

275.575

5

0,85

1.640

598.600

6

Duyên hải Nam Trung
Bộ
Tây Nguyên

0,59

650

237.250

7

Đông Nam Bộ


kg/người/ngày); đô thị loại IV có tỷ lệ phát sinh CTRSH đô thị bình quân trên môt đầu
người đạt khoảng 0,65 kg/người/ngày.
b. Hiện trạng quản lý, xử lý rác thải tại Việt Nam
Quản lý rác thải sinh hoạt tại Việt Nam, nhất là tại các thành phố như Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng… đang là thách thức lớn đối với các nhà
quản lý. Tốc độ tăng rác thải không chỉ vì dân số đô thị tăng, sản xuất, dịch vụ tăng, mà
còn vì mức sống của người dân đang ngày một tăng lên. Tỷ lệ thu gom chất thải sinh
hoạt ở các quận nội thành đạt khoảng 95%, còn các huyện ngoại thành tỷ lệ này chỉ đạt
60%; Lượng CTR công nghiệp thu gom đạt 85 – 90% và chất thải nguy hại mới chỉ đạt
khoảng 60- 70%.
Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động thu gom rác thải chủ yếu dựa vào ngân
sách nhà nước, chưa huy động được các thành phần kinh tế tham gia, tính chất xã hội
hóa hoạt động thu gom cũng như chưa thấy rõ được nghĩa vụ đóng góp kinh phischo
dịch vụ thu gom rác thải.
Việc xử lý chất thải rắn đô thị cho đến nay chủ yếu vẫn là đổ ở các bãi lộ thiên
chưa có sự kiểm soát, mùi hôi và nước rác là nguồn gây ô nhiễm cho môi trường đất,
nước, không khí. Theo báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, và theo kết
quả quan trắc của 3 vùng, mới chỉ có 32/63 tỉnh, thành có dự án đầu tư xây dựng bãi
chôn lấp hợp vệ sinh, trong đó 13 đô thị đã được đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, trừ bãi
chôn lấp tại Hà Nội và bãi chôn lấp chất thải rắn ở thành phố Huế đang hoạt động trong
sự tuân thủ các yêu cầu đảm bảo môi trường một cách tương đối, còn lại các bãi khác,
kể cả bãi chôn lấp rác thải hiên đại như Gò Cát ở thành phố Hồ Chí Minh, cũng đang ở
trong tình trạng hoạt động chưa đảm bảo vệ sinh.
Hoạt động tái chế, giảm lượng chất thải sinh hoạt được tập trung chủ yếu vào đầu
tư xây dựng các nhà máy chế biến rác thải phân hữu cơ. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động
của các nhà máy này chưa cao. Theo số liệu của Bộ xây dựng, gần đây, đã có một số
công nghệ trong nước được nghiên cứu, phát triển với nhiều ưu điểm như khả năng
phân loại rác tốt hơn, đặc biệt là đã tái chế, tái sử dụng được phần lớn lượng chất thải,
đáp ứng được tiêu chuẩn môi trường như công nghệ SERAPHIN, ANSINH- ASC và
MBT- CD.08 với sản phẩm là phân hữu cơ, các sản phẩm nhựa tái chế và nhiên liệu, đã

- Phía Nam giáp huyện Sơn Dương và huyện Đoan Hùng (tỉnh Phú Thọ);
- Phía Đông giáp huyện Định Hóa - tỉnh Thái Nguyên.
Tổng diện tích tự nhiên của huyện theo số liệu kiểm kê đất đai 2015 113.301,54
ha. Trong đó:
Đất nông nghiệp:

103.980,11 ha;

Đất phi nông nghiệp:

8.315,71ha;

Đất chưa sử dụng:

1.005,72 ha.

Bao gồm 31 đơn vị hành chính cấp xã (01 thị trấn và 30 xã). Trên địa bàn huyện
có các tuyến giao thông đường bộ quan trọng như: Quốc lộ 2; Quốc lộ 2C; Quốc lộ 37
và tuyến đường thủy (Sông Lô - Sông Gâm - Sông Phó Đáy). Yên Sơn là huyện nằm
bao bọc thành phố Tuyên Quang (trung tâm kinh tế - Văn hóa - Chính trị lớn nhất trong
toàn tỉnh) nên các tuyến giao thông chính thành phố Tuyên Quang đều đi qua địa bàn
huyện. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện hiện tại
và trong những năm tới.
b. Địa hình, địa mạo.
∗ Địa hình:
Địa hình của huyện Yên Sơn khá phức tạp, bị chia cắt bởi hệ thống sông suối,
đồi núi, thung lũng tọa thành các kiểu địa hình khác nhau. Dạng địa hình thấp dần từ
Bắc xuống Nam, cao nhất là đỉnh Núi Là (xã Kim Phú và xã Chân Sơn) có độ cao 550



- Đất phù sa không được bồi hàng năm (P): có khoảng 800 ha, phân bố ở các xã
ven Sông Lô (Trung Môn, Thái Bình). Đất có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung
bình, độ dày tầng đất trên 120 cm. Phần lớn loại đất này đã được trồng các loại cây
ngắn ngày như lúa và các cây hoa màu hàng năm khác nhưng năng suất thấp;
- Đất đỏ vàng trên đá Granit (Fa): Diện tích loại đất này có 12.529 ha phân bố
phía Tây - Nam của huyện (gồm các xã: Chân Sơn, Mỹ Bằng, Nhữ Hán, Nhữ Khê, Phú
Lâm và Thị trấn Tân Bình). Thành phần cơ giới, hoàn toàn là cát pha, độ dày tầng đất
có sự biến động từ < 50 cm đến > 120 cm. Đất có địa hình đồi dốc lớn chia cắt với các
đồi đá cát phiến sét, khả năng khai thác sử dụng cho sản xuất nông nghiệp rất hạn chế;
- Đất vàng nhạt trên đá cát (Fq): Diện tích đất này có khoảng 35.000 ha. Loại
đất này phân bố ở nơi có độ dốc cao (Trung Minh, Hùng Lợi, Tiến Bộ, Hoàng Khai ...)
Thành phần cơ giới đất hoàn toàn là cát pha, độ dày tẩng đất có biến động lớn từ < 50
cm đến > 120 cm. Đất thường khô hạn, chặt rắn. Trên loại đất này phần lớn còn rừng,
nơi có độ dốc < 250 có thể khai thác trồng cây ăn quả và cây công nghiệp lâu năm;
- Đất nâu đỏ trên đá vôi (Fv): Có diện tích khoảng 1.400 ha, phân bố ở các xã
Chiêu Yên, Tân Tiến, Tân Long ... Đất có tầng đất khá dày, khá tơi xốp, thường có
thành phần cơ giới thịt trung bình đến sét, hàm lượng dinh dưỡng cao và cân đối, phù
hợp với nhiều loài cây trồng dài ngày;
- Đất vàng đỏ trên đá sét và biến chất (Fs): Loại đất này chiếm phần lớn diện
tích tự nhiên của huyện với khoảng 60.000 ha, phân bố ở phần lớn các xã trong huyện
(chỉ riêng các xã: Mỹ Bằng, Nhữ Hán, Nhữ Khê và Thị trấn Tân Bình) không có loại
đất này. Thành phần cơ giới đất chủ yếu là thịt trung bình, độ dày tầng đất có các mức
< 50 cm; 50 - 120 cm và > 120 cm. Đất này thích hợp với nhiều loại cây công nghiệp
dài ngày (chè) và các loại cây ăn quả. Vùng đồi núi có độ dốc > 25 0C cần được bảo vệ
và trồng rừng là chính;
- Đất đen do sản phẩm bồi tụ Cacbonat (Rdv): Có 327 ha, chỉ có ở xã Kim Quan
và xã Kim Phú. Đất có thành phần cơ giới thịt nặng, chua, cần được cải tạo bổ sung
lân, kali;




Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status