Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy – La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại - Pdf 35

Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

MỤC LỤC


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

Chương mở đầu:
1

KHÁI QUÁT VỀ ĐỀ TÀI

Tính cấp thiết của đề tài
Qúa trình giải quyết vấn đề cơ bản của triết học đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai
khuynh hướng duy vật và duy tâm. Cuộc đấu tranh đó diễn ra quyết liệt trong suốt
chặng đường phát triển của lịch sử triết học, không chỉ diễn ra trong lĩnh vực triết học
mà còn trong các lĩnh vực khác. Nói cách khác, lịch sử ra đời và phát triển của triết
học là lịch sử của cuộc đấu tranh giữa chủ nghãi duy vật và duy tâm. Song song với
cuộc đấu tranh giữa hai chủ nghĩa này chính là mâu thuẫn giữa phương pháp nhận thức
tư duy biện chứng và siêu hình. Tuy nhiên sự phát triển của lịch sử triết học lại luôn
gắn lền với sự phát triển của loài người. Việc vận dụng tư duy duy vật biện chứng để
tìm hiểu sự đấu tranh tư tưởng của các trường phái triết học cùng là một quá trình
nhầm nâng cao tư duy nhận thứ của con người đối với thực tiễn xã hội nói riêng và thế
giới nói chung.
Văn minh Hy-La tuy là nền văn minh xuất hiện trễ nhất so với cái nền văn minh như
Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập nhưng nhờ đó nó lại tiếp thu được nhiều tinh hoa của các
nền văn minh đi trước, nhào nắn và tạo ra triết học Hy-La, là đỉnh cao của nền văn
minh Hy-La. Triết học Hy-La cũng chính là cái nôi sản sinh ra triết học phương Tây
và thế giới, không những thế còn là tiền đề sâu xa của Triết học Mác-Lê Nin sau này,.


-

và La Mã
Tìm hiểu về điều kiện ra đời của triết học Hy – La cổ đại
Tìm hiểu về chủ nghĩa duy vật của triết học Hy – La cổ đại
Tìm hiểu về chủ nghĩa duy tâm của triết học Hy – La cổ đại
Hiểu được ý nghĩa của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa

duy tâm trong triết học Hy – La cổ đại đối với lịch sử tư tưởng nhân loại.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
-

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy – La cổ đại

Phạm vi nghiên cứu:
Thời gian và không gian: Hy-La cổ đại
Lĩnh vực: Triết học
4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập và tổng hợp dữ liệu
Tài liệu về Hy-La cổ đại: lịch sử, xã hội, địa lí…
Tài liệu về Triết học Hy La cổ đại
- Phương pháp lịch sử và đối chiếu
Dùng lịch dử để đối chiếu ý nghĩa của triết học Hy-La cổ đại tới tiến trình phát
-

triển của con người.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Phân tích nguyên nhân ra đời của Triết học Hy-La

ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC HY-LA
CỔ ĐẠI

1.1 Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp
1.1.1 Bối cảnh lịch sử

Cho đến nay các tư liệu lịch sử vẫn chưa được khám phá hết nên thời kỳ bắt đầu và kết
của thời kì cổ đại trên đất nước Hy Lạp. Thông thường thì người ta coi nó là toàn bộ
lịch sử Hy Lạp trước thời Đế chế La Mã. Một số học giả còn tính cả các thời kỳ của
nền văn minh Mycenae sụp đổ vào khoảng năm 1100 TCN. Tuy nhiên, thông thường,
nền văn minh cổ Hy Lạp được coi là thời điểm bắt đầu Thế Vận Hội vào năm 776
TCN, nhưng nhiều nhà sử học cho là vào khoảng 1000 TCN. Cũng theo tư liệu cổ thì
thời kỳ Hy Lạp cổ kết thúc vào thời điểm Alexandros Đại Đế chết vào năm 323 TCN.
Nhưng theo các nghiên cứu khảo cổ thì có còn tồn tại mãi đến thời kỳ Đạo Ki-tô vào
thế kỷ 3.
Vào thời kì đồ Đồng, tại Hy Lạp đã xuất hiện hai nền văn minh lớn là nền văn minh
Minoan trên đảo Crete và nền văn minh Mycenae trên bánđảo Peloponnese thuộc miền
nam Hy Lạp. Nền văn minh Minoan đạt đến đỉnh cao trên đảo Crete vào khoảng năm


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

2700 đến 1450 trước Công nguyên. Nền kinh tế của họ chủ yếu dựa trên sản xuất nông
nghiệp và hoạt động ngoại thương với các quốc gia láng giềng. Người Minoan đã sản
xuất ra nhiều loại đồ gốm chất lượng cao và xây dựng được nhiều đền đài tráng lệ.
Dấu tích của những công trình vẫn còn tồn tại đến ngày nay trên đảo Crete, một trong
số đó là quần thể cung điện tại Knossos. Đến khoảng năm 1600 trước Công nguyên,
nền văn minh Mycenae trên bán đảo Peloponnese đã phát triển thịnh vượng và lấn át
nền văn minh Minoan đang tan rã. Họ đã xây dựng được nhiều thành phố lớn giàu có

hết. Thời kỳ này được gọi là Thời kỳ Hy Lạp hóa. Về sau, khi Đế chế La Mã thành lập
và trở nên hùng mạnh, Hy Lạp đã trở thành một tỉnh của La Mã nhưng những ảnh
hưởng văn hóa của Hy Lạp cổ đại vẫn được duy trì và phát triển.
1.1.2

Điều kiện tự nhiên

Hy Lạp cổ đại là một lãnh thổ rộng lớn bao gồm khu vực miền Nam bán đảo Ban-căng
(thuộc Châu Âu), nhiều hòn đảo nằm trên biển Êgiê và cả một vùng rộng lớn ở ven
biển bán đảo Tiểu á. Yếu tố địa lý tự nhiên này đã tạo điều kiện cơ bản để nền nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại phát triển từ rất sớm. Quá trình
lịch sử lâu dài với không ít những thăng trầm của vùng đất Hy Lạp cổ đại gắn liền với
sự phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng triết học của nó trong đó sự phân chia xã hội
thành giai cấp, sự phân công lao động xã hội thành lao động trí óc và lao động chân
tay đã dẫn tới sự hình thành một đội ngũ các nhà trí thức chuyên nghiệp chuyên nghiên
cứu về khoa học, triết học..
Lãnh thổ nền văn minh Hy Lạp thời kỳ đầu bao gồm Hy Lạp ngày nay và các đảo
thuộc biển Aegaeum và vùng Tây Tiểu Á. Địa điểm xuất phát phát triển của nền văn
minh Hy Lạp là đồng bằng Thessalia màu mỡ, rộng lớn ở vùng bắc Hy Lạp cùng với
các đồng bằng Attike, Beotia ở trung Hy Lạp và bán đảo Peloponnese ở phía nam Hy
Lạp. Địa lý Hy Lạp đa dạng kết hợp với khí hậu tốt, cận nhiệt đới, vào mùa đông ít
tuyết. Khí hậu Hy Lạp mưa nhiều vào mùa đông sang mùa xuân rất thuận lợi cho trồng
trọt. Hy Lạp có nhiều khoáng sản như sắt, đồng, vàng và bạc. Đó là điều kiện thuận lợi
cho thủ công nghiệp phát triển khá sớm. Những điều kiện địa lý, tự nhiên rất thuận lợi
cho các ngành nghề như thương mại, thủ công nghiệp và một nền nông nghiệp tuy
không giàu có nhưng đủ đảm bảo các nhu cầu của cư dân trong vùng.
Lãnh thổ Hy Lạp xưa rộng lớn hơn so với hiện nay gấp nhiều lần, bao gồm phần đất
liền cùng vô số hòn đảo trên biển Egie, vùng duyên hải Balcan và tiểu Á. Từ cuộc di
thực ồ ạt vào các thế kỷ VIII - VI TCN, người Hy Lạp chiếm thêm miền nam Ý, đảo
Sicile, vùng ven biển Đen, lập nên Đại Hy Lạp. Những cuộc viễn chinh toàn thắng của

lợi đối lập nhau - những người được chia nhiều đất (policler) và những người không
có đất canh tác (acler).
Bước sang thế kỷ VIII TCN, kinh tế ở các thị quốc Hy Lạp tiếp tục phát triển với nhịp
độ nhanh. Thủ công tách khỏi nghề nông nghiệp và tiến những bước đáng kể. Nghành
đóng tàu được khuyến khích nhằm phục vụ cho thương nghiệp và chiến tranh. Sự
hưng thịnh của kinh tế kích thích quá trình vượt biển tìm đất mới, xâm chiếm lãnh thổ
các xứ láng giềng, bắt người làm nô lệ. Bên cạnh đó, công cuộc di thực cũng thúc đẩy
khả năng giao lưu văn hóa, khoa học giữa Hy Lạp và các dân tộc khác.


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

Toán học và khoa học Hy Lạp đạt được khá nhiều thành tựu rực rỡ với các nhà khoa
học bậc thầy như Pythagoras, Archimedes. Họ đã phát minh ra những định lý cơ sở
cho toán học và khoa học hiện đại. Hy Lạp cũng là nơi ra đời Thế vận hội (Olympic)
đầu tiên vào năm 776 trước Công nguyên và được tổ chức 4 năm một lần, khởi nguồn
của Thế vận hội Olympic hiện đại ngày nay. Đặc biệt, sự ra đời và phát triển của Triết
học Hy Lạp là nền móng của triết học phương Tây với các nhà triết học nổi tiếng
như Thales, Platông, Aristote...
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII – đầu thế kỷ thứ VI TCN, các thị quốc bước vào thời
kỳ phát triển khá thịnh vượng. Sự phân công lao động lần thứ hai (tách nghề thủ công
ra khỏi nghề nông) và xuất hiện đồng tiền kim khí đã tạo nên những khởi sắc trong các
lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là sự hình thành các nhóm người sống bằng lao động
trí óc, biết tích hợp những tinh hoa văn hoá, khoa học vào trong những cách ngôn,
những tản văn có giá trị nhận thức cao. Trong số họ nổi bật Thalès, người mà Aristote
gọi là nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại. Với Thalès triết học đã ra đời, thay thế
thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ, đồng thời thâu tóm các tri thức khoa học vào trong
một hệ thống mang tính khái quát cao. Triết học ra đời như sự giải quyết mâu thuẫn
giữa bức tranh thần thoại về thế giới, được xây dựng trên tưởng tượng, với nhận thức

được xây dựng, trở thành bộ phận hữu cơ của toàn bộ đời sống xã hội Hy Lạp cổ đại.
Những biểu hiện chủ yếu của hệ thống các giá trị tinh thần mới là sự duy lý hóa tư
duy, ý thức về nhân cách, ca ngợi tính tích cực, lòng quả cảm và năng lực con người
trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, tinh thần ái quốc, quan niệm về tự do như phạm trù
đạo đức - chính trị cao quý nhất… sự hình thành những cơ sở của văn hóa Hy Lạp
không diễn ra một cách ngẫu nhiên, mà là sự kế thừa những giá trị truyền thống, thể
hiện trong các sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các hình thức sinh hoạt tôn
giáo, trong những mầm mống của tri thức khoa học. Tư tưởng triết học phát sinh và
phát triển như một thành tố không tách rời của văn hóa mới ấy. Với tính cách là tinh
hoa tinh thần của thời đại, nó cố gắng đem đến lời giải đáp nghiêm túc, sâu sắc, hợp
lý, có hệ thống về những gì diễn ra xung quanh, về vị trí của con người trong thế giới
và thế giới của chính con người, do con người tạo ra cùng những giá trị, những chuẩn
mực, những định hướng cho mình.
1.2 Điều kiện ra đời của triết học La Mã


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

1.2.1 Bối cảnh lịch sử
Đế quốc La Mã, hay còn gọi là Đế quốc Roma (tiếng Latinh: IMPERIVM ROMANVM)
là thời kỳ hậu Cộng hòa của nền văn minh La Mã cổ đại. La Mã từng là một đế quốc
rộng lớn tồn tại từ khoảng thế kỷ thứ 1 TCN cho đến khoảng thế kỷ thứ 5 hay thế kỷ
thứ 6, gồm phần đất những nước vây quanh Địa Trung Hải ngày nay. Đế quốc La Mã
là sự tiếp nối của Cộng hòa La Mã và nằm trong giai đoạn cuối cùng của thời cổ điển..
Nó được tính từ khi Augustus bắt đầu trị vì từ năm 27 TCN và có nhiều mốc kết thúc
khác nhau.
Nền Cộng hòa La Mã 500 năm tuổi, tiền thân của Đế quốc La Mã, đã bị suy yếu qua
nhiều cuộc nội chiến. Đã có nhiều sự kiện xảy ra đánh dấu bước chuyển mình từ nền
Cộng hòa sang Đế quốc, bao gồm việc Julius Caesar được bổ nhiệm làm nhà độc tài

Nhưng từ thế kỷ thứ 2, Đế quốc La Mã có nhiều tranh giành quyền lực và suy yếu.
Đến thế kỷ thứ 4, nhiều cư dân bên ngoài xâm nhập và Đế quốc La Mã bị chia hai:
Tây La Mã và Đông La Mã (gọi là Đế chế Byzantine). Tây La Mã bị sụp đổ vào năm
476; và Đế quốc Đông La Mã bị sụp đổ vào năm 1453.
1.2.2 Điều kiện tự nhiên
Đế quốc La Mã là một trong những đế quốc lớn nhất trong lịch sử. Thành ngữ
Latinh imperium sine fine ("đế quốc mà không có điểm kết thúc") nhằm nêu lên sự mơ
tưởng rằng đế quốc không bị giới hạn về cả thời gian hay không gian. Trong bộ sử
thi Aeneid củaVergil, sự vô hạn của đế quốc được nói là do vị thần Jupiter ban cho
những người La Mã. Tuyên bố về sự thống trị thế giới này đã được tiếp tục nhắc đến
và tồn tại cho đến khi Đế quốc nằm dưới sự thống trị của Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4.
Bán đảo Ý dài và hẹp vươn ra Địa Trung Hải, với dãy Alpes về phía Bắc ngăn cách
với châu Âu. Bán đảo Ý trong trên bản đồ như một chiếc ủng, bao bọc ba mặt là biển,
phía Nam bán đảo là đảo Sicilia, phía Tây là đảo Corse và Sardegna.
Bán đảo Ý có những điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển một nền văn minh:
những đồng bằng phì nhiêu bên sông Po, Trung Ý và đảo Sicilia cùng với khí hậu ấm
áp mưa nhiều; bán đảo Ý cũng là nơi có lượng khoáng sản phong phú, giao thông biển
rất thuận lợi cho việc buôn bán, giao lưu với các nền văn minh khác trong vùng.
Nền văn minh La Mã là nơi khá sớm có con người cư trú, có thể khẳng định vào loại
sớm nhất với lục địa châu Âu. Bán đảo Ý là nơi hội tụ của các nền văn minh Đông và
Tây Địa Trung Hải, Bắc Phi. Mặc dù sự cực thịnh của nền văn minh La Mã không


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

được các nhà nghiên cứu đánh giá sớm hơn các nền văn minh lân cận, như nền văn
minh Ai Cập cổ đại hay nền văn minh Tây Á nhưng lại phát triển rực rỡ và cực thịnh.
Từ thời đồ đá cũ đã xuất hiện những cư dân sống ở bán đảo. Thời kỳ này, sự di cư của
các cư dân từ các lục địa vào bán đảo Ý và bị cách biệt với phần còn lại của châu Âu

Xã hội La Mã cũng có nhiều hệ thống phân cấp xã hội chồng chéo mà những khái
niệm hiện đại về "giai cấp" trong tiếng Anh có thể không đại diện một cách chính xác
cho nó. Hai thập kỷ của những cuộc nội chiến mà từ đó đã giúp cho Augustus nổi lên
và trở thành nhà cai trị duy nhất đã để khiến cho xã hội truyền thống ở Roma rơi vào
tình trạng hỗn loạn và biến động, nhưng nó lại không ảnh hưởng một cách trực tiếp tới
sự phân bố giàu nghèo và quyền lực xã hội. Những mối quan hệ cá nhân như sự bảo
trợ, tình bạn (Amicitia), gia đình, hôn nhân đã tiếp tục ảnh hưởng đến các hoạt động
chính trị và chính quyền như dưới thời Cộng hòa. Tuy nhiên, vào triều đại của Nero,
việc tìm thấy một cựu nô lệ lại giàu có hơn một công dân tự do, hoặc một kị sĩ có
nhiều quyền lực hơn một nguyên lão lại không phải là một điều bất thường.
Từ những điều kiện kinh tế xã hội như trên, dễ thấy La Mã có một vị trí thuận lợi để
giao lưu văn hóa với nhiều nền văn hóa và phát triển kinh tế. Cùng với trong long xã
hội có nhiều mâu thuẫn, cuộc sống con người nhiều khó khăn, nhất là tậng lợp bị trị
khi mà tư tưởng giai cấp bị đè nặng đòi hỏi họ phải có một niềm tin vào cái mới, tôn
giáo cũng như Triết học chính là cái phao giúp họ them tin yêu vào xã hội.
Xã hội Lã Mã phát triển sau thời kì đỉnh cao của văn minh Hỵ Lạp nên họ có thể kế
thừa những thành tựu của văn minh Hy Lạp, trong đó có tư tưởn triết học. Các
nhà triết học La Mã cũng đã kế thừa truyền thống của triết học Hy Lạp, kế thừa những
tư tưởng duy vật của Đêmôcrit. Những nhà triết học tiêu biểu thời kì đó
như: Lucretius, Ciceron. Ngoài ra, sau này còn có những đại diện xuất sắc của trường
phái"Khắc kỷ" như Seneca và Marcus Aurelius.
1.3 Đặc điểm của triết học Hy-La
Dựa trên điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và sự phát triển của khoa học cũng như
chính sự phát triển của bản thân triết học Hy-La cổ đại. Có thể thấy, triết học Hy-La cổ
đại có những đặc điểm cơ bản sau:


Triết học Hy-La cổ đại là triết học của giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội
Hy-La khi ấy. Cho nên, triết học Hy-La cổ đại ngay từ khi mới ra đời đã mang



rằng: “triết học là khoa học của các khoa học”.
Trong triết học Hy-La cổ đại đã có tư tưởng biện chứng. Đỉnh cao là phép biện
chứng của Hêraclít. Mặc dù phép biện chứng này còn ngây thơ, chất phác
nhưng đã là hình thức lịch sử đầu tiên của phép biện chứng duy vật và có ý
nghĩa to lớn đối với sự phát triển của tư duy biện chứng của nhân loại. Bởi ngay
từ khi mới ra đời, nó đã tìm cách giải thích thế giới như một chỉnh thể thống
nhất trong đó các sự vật vận động và biến đổi không ngừng. Hêraclít đã nhận ra
một chân lý nổi tiếng: trong cùng một thời điểm sự vật đồng thời là nó lại vừa
là cái khác. Vì vậy, “không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông”. Mặc dù
vậy, phép biện chứng cũng mới chỉ được hiểu như là nghệ thuật tranh luận.



Hoạt động thực tiễn của con người hầu như không được bàn đến.
Triết học Hy-La cổ đại đề cập đến nhiều vấn đề con người và số phận con
người. Mặc dù các nhà triết học còn có những ý kiến khác nhau về bản chất con
người, nhưng họ đều coi trọng con người, coi con người là tinh hoa cao quý của
tạo hóa, con người cần chinh phục tự nhiên để phục vụ cho mình. Chẳng hạn,
Pitago cho rằng: “Con người là thước đo của tất thảy mọi vật”. Tuy nhiên, con


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

người thời kỳ cổ đại được nhìn nhận chủ yếu với tổ chức cá thể; giá trị con
người chủ yếu chỉ được bàn đến ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp, nhận thức luận.
• Tiểu kết:
Sự hình thành triết học Hy-Lạ không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu
của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong

Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

- Triết học thời sơ khai, hay thời kỳ hình thành các thị quốc đầu tiên (còn gọi là
triết học thời kỳ trước socrate). Đây là thời kỳ đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ. Triết
học thay thế thần thoại, mong muốn tìm kiếm lời giải đáp nghiêm túc, hợp lý cho
những vấn đề của tồn tại và nhận thức. Nhu cầu của đời sống kinh tế thúc đẩy sự phát
triển các tri thức về thiên văn, địa lý, hàng hải. Phần lớn các triết gia, tập trung trong
các trường phái Milet, trường phái Pythagore, trường phái Héraclite, trường phái Elée,
đồng thời là các nhà khoa học, hoặc có những am hiểu nhất định về khoa học. Triết
học tách khỏi sự ảnh hưởng của thế giới quan thần thoại, tôn giáo nguyên thủy, chập
những bước đi đầu tiên trên con đường chinh phục thế giới, tìm hiểu bản nguyên và
bản tính thực sự của nó (vũ trụ bắt đầu từ đầu và quay về đầu? thế giới có trải qua quá
trình phát sinh, phát triển và diệt vong hay không? Có vận động hay không? Nếu có,
thì sự vận động diễn ra theo tính quy luật bên trong của thế giới, hay do sự tác động
của lực lượng bên ngoài siêu nhân nào đó?...). Thế giới quan triết học còn ở trìnhđộ sơ
khai, chất phát, ấu trĩ, nhưng đã mang tính hệ thống và tính phân cực rõ ràng. Triết học
tự nhiên chiếm ưu thế (nhằm vượt qua thần thoại, thế hệ các triết gia đầu tiên cố gắng
lý giải những nguyên nhân của thế giới từ chính những chất liệu sẵn có của thế giới),
những vấn đề nhận thức luận, nguồn gốc sự sống cũng được đặt ra. Thời kỳ khai
nguyên triết học là thời kỳ hình thành trong dạng phôi phai những khuynh hướng và
những phương pháp tư duy cơ bản nhất.
- Triết học thời cực thịnh, gắn với những bước thăng trầm của nền dân chủ nô
(còn gọi là triết học thời kỳ Socrate). Sự quan tâm về tự nhiên đã đưa đến sự ra đời các
học thuyết triết tự nhiên. Thế nhưng, trong suốt hàng thế kỷ, những cuộc tranh luận
triền miên về bản nguyên và bản tính của thế giới không đem đến lời giải đáp cuối
cùng, thực sự thuyết phục. Câu chuyện khôi hài về hình ảnh triết ra, nhà khoa học
Thalès rơi tóm xuống giếng do mải mê hướng mắt lên trời cao, mà không để ý những
gì diễn ra dưới chân mình và xung quanh mình, đã ngụ ý cái hụt hẫng, chơi với của
triết học thời sơ khai: triết lý hướng tầm nhìn ra vũ trụ với thái độ ngạo mạn, óc chinh

trong các lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội, mà tiêu biểu là sự xác lập nền dân
chủ - phát minh chính trị của người Hy Lạp. Dân chủ là hình thức tổ chức nhàn nước
ưu việt nhất của thế giới cổ đại.
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hóa. Người Hy Lạp nạp phát minh ra dân chủ, những
đó là nền dân chủ dành cho thiểu số ít ỏi các “công dân tự do”. Nô lệ không được gọi
là con người, mà chỉ là thứ công cụ biết nói, hàng hóa trao đổi giữa các chủ nô. Nhiều
triết gia trở thành nạn nhân của dân chủ, bởi họ dám thách thức các nghi lễ tín ngưỡng
cổ hủ. Hơn nữa, trong khi Athènes, nền dân chủ đang được thực hiện, thì tại Sparte


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

láng giềng lại tồn tại chế độ cai trị hoạt đầu. Chiến tranh Péloponnèse (430 - 404 TCN)
giữa Sparte và Athènes đã đưa đất nước tới chỗ suy vong. Philippe xứ Macédoine lợi
dụng thời cơ đánh chiếm Hy Lạp năm 387. Sau khi philippe chết, con trrai là
Alexander đã cai trị Hy Lạp một cách tàn bạo và đem quân chinh phục các nước
phương Đông như Ba tư, Ai Cập, Babylon, Ấn Độ, các nước vùng Trung Á. Trong
vòng mười năm vua Alexander xây dựng được một đế quốc rộng lớn, nhưng ông lại
chết sớm, khi mới 33 tuổi (năm 323 TCN). Suốt hai năm trời các tướng lĩnh chỉ lo
tranh giành quyền lực, khiến xã hội sa vào tình trạng kiệt quệ. Cuối cùng cả Hy Lạp,
Macédoine và đế quốc của Macédoine bị La Mã dung vũ lực chinh phục và thôn tính.
La Mã đô hộ Hy Lạp về quân sự và chính trị, nhưng về văn hóa chính Hy Lạp đã ảnh
hưởng ngược trở lại, nên thời kỳ này sử sách gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa
(Hellénisation). Tuy nhiên tinh thần khám phá và sáng tạo không còn mãnh liệt như
thời kỳ nền dân chủ Athènes. Đỉnh cao phát triển đã lùi lại phía sau. Thế hệ mới không
đủ sức vượt qua những cây đại thụ tư tưởng, nhưng không thể chấp nhận sự lặp lại quá
khứ, cho dù là quá khứ oanh liệt vàng son. Bị cuốn vào vòng xoáy nghiệt ngã của
chiến tranh, bạo lực, khủng bố, các triết gia không còn mấy tâm trí bàn đến những vấn
đề phổ quát, siêu hình, lớn lao, mà lay hoay với thế giới nội tâm, cuộc sống tình cảm,

giới để giải thích thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một thời nguyên vật chất
duy nhất.
2.2.2 Trường phái Héraclite : (540 – 575 BC)
Do nhà ẩn dật Héraclite sáng lập. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc
chủ nô ở thành phố Ephetdơ. Ông sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ
các tư tưởng biện chứng chất phát từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản nguyên của thế giới
là lửa. Vũ trụ không phải do Thượng Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra,
mà nó “đã” và “đang” sẽ mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và
lụi tàn. Tàn lụi và bùng cháy theo cái logos tức là “quy luật, trật tự” nội tại của chính
mình. Ông xem thế giới “vừa tồn tại vừa không tồn tại”, “không ai tắm hai lần trong
một dòng sông”. Thế giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính hài
hòa vừa xung đột”.
-

Bản nguyên vật chất là lửa:
+ Vạn vật sinh ra từ lửa, khi mất đi quay về với lửa.


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

+ Vũ trụ đã và đang là ngọn lửa vĩnh hằng, không ngừng bùng cháy, tàn lụi; tàn
lụi, bùng cháy theo logốt nội tại của mình.
-

Bản tính thế giới là biện chứng:
+ Vạn vật cả linh hồn chứa trong m ình các mặt đối lập luôn đấu tranh với
nhau.
+ Vạn vật vừa tồn tại, không tồn tại, luôn sinh th ành, biến đổi, chuyển hóa “
không ai tắm hai lần trên một dòng sông”

Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

+ Tồn tại vô số hạt giống cực nhỏ, đ ược phân chia đến vô tận-cái bảo tồn và tính
chất của sự vật.
+ Mỗi sự vật vật chất chứa trong m ình mọi hạt giống khác nhưng nó chỉ bị quy
định bởi tính chất hạt giống chính nó.
-

Nus :

+ Linh hồn của thế giới, động lực làm các hạt giống nẩy nở, thay thế cho nhau , nus
đưa thế giới thoát khỏi sự hỗn độn để đi v ào quá trình tiến hóa của mình và đưa nó
qua nhận thức bản thân thế giới.
=> Tuy nhiên, quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, nghĩa là còn hạn chế.
Những hạn chế này được thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận. Nhưng thuyết này
vẫn còn sơ khai và nhận định bằng cảm tính.
2.2.4 Trường phái nguyên tử luận
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện trong
trường phái nguyên tử luận thế kỷ V – III BC. Leucippe là người sáng lập và
Démocrite là người kế thừa và phát triển.
Leucippe (500 – 440 BC), ông cho rằng, mọi sự vật được cấu thành từ những nguyên
tử. Đó là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn về số
lượng và vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể thẩm thấu được. Tư tưởng
của ông không được hiểu một cách đầy đủ, nhưng ông đã để lại qua những trang viết
của các học trò ông tổng hợp. Démocrite (460 – 370 BC) là học trò của Leucippe đã kế
thừa và phát triển thuyết nguyên tử luận trên một phương diện mới. Theo ông vũ trụ
được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử và chân không. Hai thực thể này
là căn nguyên của các sự vật hiện tượng.


2.3 Chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy-La cổ đại
2.3.1 Trường phái của Pythago
Con số là bản chất của vạn vật: Trật tự thần thánh của những con số quy định trật tự
của vạn vật, trật tự của những điều thiện - ác. Điều ác xảy ra khi con người không thực
hiện đúng trật tự thần thánh. Linh hồn bất tử là tồn tại độc lập với thể xác, chịu sự chi
phối bởi luật nhân hồi. Mục đích của cuộc sống là giải thoát linh hồn ra khỏi thể xác.
Nhận thức là chức năng của linh hồn, bằng chi êm nghiệm tâm linh, qua sự mách bảo
của thần linh mà chân lý xuất hiện.


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

=> Trường phái Pytago đặt nền móng cho trào lưu duy tâm thời cổ Hy lạp.
2.3.2 Trường phái Êlê
- Pácmênit: Tồn tại là bản chất chung của vạn vật. Không có gì được sinh ra từ hư vô
(không tồn tại); không có gì mất đi mà không để lại dấu vết-tồn tại. Trong thế giới vạn
vật biến đổi nhưng bản thân tồn tại luôn bất biến, đồng nhất với chính nó. Bản chất của
tồn tại là bất biến, vĩnh hằng và đơn nhất. Tồn tại (chân lý) chỉ được nhận thức bằng lý
tính, cảm tính chỉ mang lại ảo giả.
- Dênông: Xây dựng các apôri để đào sâu tư duy lý luận và chứng minh tồn tại là đồng
nhất, duy nhất và bất biến; còn tính phức tạp đa dạng và vận động của vạn vật là ảo.
2.3.3 Chủ nghĩa nhị nguyên của Arixtôt
- Thuyết nguyên nhân- cơ sở siêu hình học:
+ Tồn tại xuất phát từ 4 nguyên nhân: vật chất-hình thức-vận động và mục đích,
trong đó hình thức và vật chất là cơ bản nhất. Mọi vật tồn tại đều có nguy ên
nhân.
+ Tồn tại cả vật chất ban đầu phi hình thức lẫn hình thức ban đầu phi vật chất.
+ Hình thức quan trọng hơn vật chất.
+ Vật chất chỉ là bản thể thụ động.

chiêm ngưỡng trong thế giới ý niệm nh ưng bị lãng quên.


Quan niệm về đạo đức, chính trị, xã hội:

Sống hạnh phúc là sống có đạo đức, hướng thiện: Hành vi hướng thiện là dùng lý trí
khám phá ý niệm tuyệt đối khách quan trên trời. Linh hồn có 3 phần đưa đến xã hội có
3 loại người (triết gia, chiến binh, thợ thủ công, thương gia) làm các việc khác nhau.
Nhà nước đảm bảo sự phân công trên được thực hiện, tuy nhiên chế độ tư hữu tư nhân
đã làm cho nhà nước bị tha hóa. Chế độ xã hội tốt nhất là chế độ cộng hòa quý tộc. do
vị vua là nhà triết học tài ba nhất lãnh đạo.
Thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ Athen
và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận. Được xây dựng bởi
Socrate và Platông.


Socrate (469 – 399 BC)

Khác với nhiều nhà bác học khác là không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành
phần lớn nghiên cứu về con gười, đạo đức. “Con người hãy nhận thức về chính mình”.
Bàn về con người dưới khía cạnh đạo đức. Platông (427 – 347 BC), xuất thân trong
một gia đình chủ nô quý tộc ở Athen. Ông trở thành kiệt xuất nhất thời cổ đại Hy Lạp
bởi quan niệm triết học duy tâm khách quan. Ông xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách
quan với nội dung chính là “thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện
chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.


Triết học Platông:

Platông là nhà triết học duy tâm khách quan. Điểm nổi bật trong hệ thống triết học duy

sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết mâu thuẫn giữa
các nhu cầu xã hội.
2.4 Cuộc đấu tranh giữa giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết
học Hy-La cổ đại
2.4.1 Qúa trình phát triển của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm
Lịch sử triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại có thể chia làm ba thời kỳ. Xuyên suốt ba thời
kỳ ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status