TƯ TƯỞNG THIÊN NHÂN HỢP NHẤT TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - Pdf 34

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI

----------

DNG TH PHNG

T tởng Thiên nhân hợp nhất trong triết học
Trung Quốc cổ đại và ý nghĩa của nó đối với việc
bảo vệ môi trờng sinh thái ở Việt Nam hiện nay
Chuyờn ngnh

: Trit hc

Mó s

: 60.22.03.01

LUN VN THC S TRIT HC

Ngi hng dn khoa hc : TS. Lờ Th Duy Hoa

1


HÀ NỘI - 2015

2


LỜI CAM ĐOAN



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BVMTST

: Bảo vệ môi trường sinh thái

CNH – HĐH : Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

5

MTST

: Môi trường sinh thái

NQ/TW

: Nghị quyết Trung ương

PSG.TS

: Phó giáo sư, Tiến sỹ

TCCP

: Tiêu chuẩn cho phép.

TCN

: Trước công nguyên

cả cuộc sống của cá, môi trường nước thay đổi, nhất định sẽ ảnh hưởng đến
sự sống của cá, con người cũng vậy, thiên nhiên có sự thay đổi tất sẽ ảnh
hưởng đến cuộc sống của loài người. Người xưa đặt con người trong môi
trường tự nhiên để tìm hiểu về cuộc sống, yêu cầu con người phải luôn luôn
có những hành vi phù hợp với tự nhiên, dung hòa với thiên nhiên, con người
và thiên nhiên phải là một thể thống nhất.
7


“Thiên nhân” vốn là hợp nhất, lý tưởng nhân sinh tối cao là sự tự giác
đạt đến cảnh giới thiên nhân hợp nhất, mọi vật đều là nhất thể, nội ngoại vốn
không phân cách. Tư tưởng Thiên nhân hợp nhất biểu hiện từ sự quan sát sự vật
trong tổng thể vũ trụ, thể hiện đầy đủ bản sắc văn hóa, tri thức và tư duy trong
triết học Trung Quốc cổ đại. Mục tiêu cuối cùng mà Thiên nhân hợp nhất
hướng tới là sự hài hòa và thống nhất của vũ trụ, tự nhiên, con người và sự vật.
Sự phát triển vũ bão của nền văn minh công nghiệp và hậu công
nghiệp trên phạm vi toàn thế giới cùng với sức ép của sự bùng nổ về dân số
đã đẩy con người tới chỗ khai thác cạn kiệt nhiều nguồn tài nguyên thiên
nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái và gây ô nhiễm môi trường ngày càng
nghiêm trọng, thậm chí đe dọa đến cả sự tồn tại của bản thân các nền văn
minh trên trái đất. Hiện nay, tiếng chuông cảnh báo “Hãy cứu lấy trái
đất” đã ngân lên thức tỉnh con người trước những vấn đề cấp thiết của môi
trường, thấy được cái giá phải trả cho việc thiếu tôn trọng thiên nhiên.
Hơn lúc nào hết, việc truy tìm và tôn vinh những triết lý sâu sắc, có
giá trịđịnh hướng thái độ và hành động của con người một cách thông minh,
để con người cư xử với tự nhiên một cách thân thiện hơn hiện đang là một
đòi hỏi khách quan và bức bách. Vì vậy em chọn đề tài: “Tư tưởng Thiên
nhân hợp nhất trong triết học Trung Quốc cổ đại và ý nghĩa của nó đối
với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận
văn thạc sỹ Triết học của mình.

triển con người và bảo vệ môi trường.
Ở Việt Nam cũng có nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu vấn đề này từ
nhiều khía cạch khác nhau dựa trên nền tảng tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất”
trong triết học Trung Quốc cổ đại và lập trường triết học Mác: Đề tài khoa
học – công nghệ cấp bộ “Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong sự
phát triển của xã hội”, năm 2000 do PSG.TS Hồ Sỹ Quý làm chủ nhiệm đã
phân tích trạng thái lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên. Trên cơ sở đó nêu ra những suy nghĩ bước đầu về cho triết lý về mối

9


quan hệ giữa con người với tự nhiên trong sự phát triển của xã hội Việt Nam
ngày nay. PGS.TS Phạm Thị Ngọc Trầm với công trình “Môi trường sinh thái,
vấn đề và giải pháp”, năm 1997, xác định vấn đề sinh thái là một trong những
vấn đề toàn cầu của thời đại, trình bày một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
bách của vấn đề môi trường sinh thái hiện nay, gợi mở những phương hướng
giải quyết vấn đề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tác
giả Lương Đình Hải, trong bài viết “Một số nguyên tắc phương pháp luận căn
bản của việc giải quyết mối quan hệ hiện đại hóa xã hội và môi trường sinh
thái”.
Tạp chí Triết học số 6 (181), tháng 6-2006 đã đưa ra bốn nguyên tắc
phương pháp luận căn bản để giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa hiện đại
hóa xã hội và môi trường sinh thái: “Nguyên tắc thay đổi nhận thức”,
“Nguyên tắc về mặt lợi ích”, “Nguyên tắc tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải
thiện và bảo vệ môi trường sinh thái”, “Nguyên tắc công nghệ tiên tiến”.
Cùng quan điểm hướng đến sự phát triển bền vững của xã hội Việt
Nam, một số tác giả như: Lương Đình Hải, Vũ Đình Hòa, Hoàng Đình Cúc,
Nguyễn Hữu Thắng … trong các bài viết của mình đã luận chứng để làm rõ
rằng , phát triển xã hội bền vững và hài hòa là một xu hướng tất yếu, khách

quan quản lý khác.
Trên đây là những công trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu và rất
đáng trân trọng. Kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực này đã góp phần tích cực
vào việc hoạch định chiến lược, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời
kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, tư tưởng “Thiên nhân hợp
nhất trong triết học Trung Quốc cổ đại và ý nghĩa của nó đối với việc bảo vệ
môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay” vẫn chưa có một công trình nào
nghiên cứu trực tiếp và hệ thống. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài này và tác

11


giả xin kế thừa, tiếp thu các công trình nghiên cứu trên trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thiện đề tài của mình.
3.

Mục đích
Trên cơ sở làm rõ nội dung tư tưởng Thiên nhân hợp nhất trong triết học
Trung Quốc cổ đại và từ thực trạng môi trường sinh thái cũng như bảo vệ môi
trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay. Luận văn đề xuất phương hướng và giải
pháp bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam trên cơ sở vận dụng tư tưởng Thiên
nhân hợp nhất.

4.

Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng đồng thời các phương pháp: phân
tích, tổng hợp, so sánh, logic, lịch sử, điều tra xã hội học, trừu tượng hóa,
khái quát hóa.

- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm bảo vệ, cải
thiện môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở vận dụng tư
tưởng Thiên nhân hợp nhất.
7.

Kết cấu của đề tài
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm có 2 chương, 5 tiết.

13


NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG THIÊN NHÂN HỢP NHẤT
TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.1. Hoàn cảnh lịch sử Trung Quốc cổ đại..
Nhắc đến triết học phương Đông không thể không nhắc đến nền triết học
Trung Quốc. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, sự ra đời cũng như
quá trình phát triển của tư tưởng Triết học Trung Quốc cổ đại gắn liền với sự
biến đổi các quan hệ kinh tế, xã hội trong lịch sử xã hội Trung Quốc cổ đại.
Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII Tr.CN, Thành Thang, vua một nước nhỏ
(vốn thuộc Hạ) ở vùng hạ du sông Hoàng Hà, đã lật đổ triều vua cuối cùng
của nhà Hạ, lập nên nhà Thương đặt đô tại đất Bạc (thuộc tỉnh Hà Nam ngày
nay). Đến thế kỷ XIV Tr. CN vua tiếp theo của nhà Thương là Bàn Canh đã
dời đô đến đất Ân (thuộc thành phố An Dương thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay)
và định cư ở đây trong khoảng 270 năm. Vì thế, nhà Thương còn được gọi là
nhà Ân. Dưới triều đại Ân – Thương, nền kinh tế - xã hội có sự phân chia sâu
sắc giữa sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và sản xuất thủ công nghiệp. Các
công cụ bằng đồng đã được sử dụng phổ biến góp phần phát triển sức sản xuất
chủ yếu của xã hội.

điểm có tính chất vô thần, tiến bộ khẳng định vị trí và tác dụng hoạt động của
con người trong xã hội cũng như trong quan hệ với tự nhiên.
Nổi bật trong tất cả các tư tưởng duy vật sơ khai thời đó là quan niệm về
sự tác động phối hợp của ngũ hành tức là năm yếu tố vật chất cơ bản đầu tiên
tạo thành vạn vật vũ trụ. Đó là các yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa Thổ được thấy
trong Kinh Thư, thiên Hồng Phạm. Đặc biệt, quan niệm về sự tác động bồi bổ
lẫn nhau giữa hai mặt đối lập, hai thế lực căn bản và phổ biến của thế giới: Âm
dương và 8 nguyên tố vật chất cấu thành vạn vật: càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly,
đoài để giải thích nguồn gốc biến hóa của vạn vật trong vũ trụ. Tư tưởng đó thể

15


hiện rõ tính chất duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát trong tư duy
người Trung Quốc cổ đại được đánh dấu bằng tác phẩm vĩ đại nhất thời cổ là
Kinh Dịch.
Như vậy, dưới các triều đại Ân Thương và Tây Chu, các tư tưởng triết
học Trung Quốc cổ đại đã manh nha hình thành. Đó là bước tiến quan trọng
của người Trung Hoa thời cổ trong quá trình lý giải thế giới xung quanh và sự
nhận thức về mình. Tuy còn hết sức ngây thơ nhưng chủ nghĩa duy vật và vô
thần hình thành trong thời kỳ Ân Thương và Tây Chu thực sự là tư tưởng mở
đường cho sự phát triển của triết học Trung Quốc trong thời kỳ Xuân Thu –
Chiến Quốc sau này.
Thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc được chia thành hai giai đoạn: giai
đoạn Xuân Thu và giai đoạn Chiến Quốc. Giai đoạn Xuân Thu được đánh dấu
bằng sự kiện Chu Bình Vương lên ngôi nhà Chu (năm 771 Tr. CN). Giai đoạn
Chiến Quốc vì giai đoạn này lịch sử Trung Quốc cổ đại đã chứng kiến các
cuộc chiến tranh khốc liệt của các quốc gia vốn là các nước chư hầu của nhà
Chu ( chủ yếu là cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa bảy nước lớn thời
đó, còn gọi là “Chiến Quốc thất hùng”), kết cục là nước Tần tiêu diệt sáu

xã hội ngày càng gia tăng, cuối thời Xuân Thu, tình trạng kinh tế, chính trị
của xã hội trở nên hết sức rối rắm.
Bước sang giai đoạn Chiến Quốc, nền kinh tế so với thời Xuân Thu đã
có bước phát triển mạnh mẽ. Nghề luyện sắt đã đạt tới trình độ khá cao. Đô
thành các nước và một số thành ấp lập trên những trục lộ giao thông trọng yếu
đã biến thành những thành đô sầm uất như Hàm Dương nước Tần, Thọ Xuân
nước Sở, Lâm Truy nước Tề, Khai Phong nước Ngụy.
Tuy nhiên, chiến tranh tàn khốc trên quy mô lớn và liên tục giữa các
nước chư hầu đã làm cho đời sống nhân dân lao động ngày càng cùng cực hơn.
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên

17


kể từ thời Xuân Thu đã làm cho các công xã nông thôn tan rã. Chế độ chiếm
hữu tư nhân về ruộng đất dần trở thành quan hệ thống trị. Việc mua bán ruộng
đất tự do và sự phổ biến của chế độ tư hữu đã tạo ra sự phân hóa giàu nghèo
gay gắt. Chế độ bóc lột bằng phát canh thu tô xuất hiện. Trong lòng xã hội đã
xuất hiện những quan hệ sản xuất mới, đó là chế độ phong kiến quận huyện.
Mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt hơn. Thực tiễn thời Chiến Quốc đòi hỏi
phải có các cải cách xã hội.
Về chính trị, các quốc gia chư hầu của vương triều Đông Chu vẫn tiếp
tục thôn tính lẫn nhau, tạo ra các cuộc chiến tranh liên miên giữa các quốc
gia. Cuối thời Chiến Quốc chỉ còn lại những nước lớn và đã tạo ra cục diện
mà lịch sử gọi là “thất hùng tranh bá” bao gồm “Tần, Hàn, Triệu, Ngụy, Tề,
Sở, Yên”. Trong bảy nước lớn kể trên thì nổi bật vai trò ngày càng lớn mạnh
là nước Tần, với chính sách đối nội và đối ngoại khôn khéo, nước Tần đã
ngày càng hưng thịnh. Và sau đó dưới sự lãnh đạo của Tần Vương Doanh
Chính, nước Tần đã lần lượt đánh bại sáu nước còn lại, lập ra nhà nước phong
kiến Trung Hoa tập quyền đầu tiên năm 221 Tr. CN. Biến cố này là dấu ấn ghi

Như vậy có thể nói, chính những điều kiện về lịch sử, kinh tế, chính trị, xã
hội đầy biến động và phức tạp của xã hội Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu – Chiến
Quốc đã làm cho các tư tưởng triết học của Trung Quốc cổ đại vốn bắt nguồn từ
thần thoại và tôn giáo thời cổ đến thời kỳ nay đã được cấu thành bằng các hệ
thống tri thức lý luận chặt chẽ. Vì vậy nó không chỉ giữ vai trò là thế giới quan,
nhân sinh quan mà còn là cơ sở tạo ra phương pháp luận trong mọi hoạt động
của người Trung Quốc thời cổ. Chính trong bối cảnh đó, các học thuyết triết học
cơ bản Trung Quốc thời cổ đã được hình thành và phát triển. Nó không chỉ để lại
một dấu ấn quan trọng trong sự phát triển của thời kỳ “Bách gia chư tử” mà còn
có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của triết học và các lĩnh vực khoa học
khác sau này.

19


1.2.Tư tưởng Thiên Nhân hợp nhất trong một số trường phái triết
học tiêu biểu của Trung Quốc cổ đại.
1.2.1.

Tư tưởng thiên nhân hợp nhất trong nho giáo.
Nho giáo ra đời cách đây 26 thế kỷ, tức là vào khoảng thế kỷ thứ VI
TCN, người sáng lập là Khổng Tử. Khổng Tử tên gọi là Khâu, tự là Trọng Ni,
người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông ngay nay. Ông sinh
năm 551 TCN đời Lỗ Tương Công năm 22, Chu Linh Vương năm 21 tại ấp
Trâu, nước Lỗ. Đây là thời kỳ mà xã hội Trung Hoa loạn lạc triền miên, các
Vua chúa chuyên quyền, đang tâm hưởng thụ hoặc đánh giết lẫn nhau để xưng
hùng xưng bá, đạo lý nhân luân bị xáo trộn, vinh nhục không rõ ràng, thiện ác
khó phân biệt đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng của Khổng tử sau này.
Cha ông là Thúc Lương Ngột làm quan võ của triều đình nước Lỗ, mẹ là
Nhan Thị. Cha ông mất khi ông 3 tuổi, gia cảnh từ đó bần hàn nhưng bà Nhan

hội và đạo đức con người, trong đó phải kể đến một tư tưởng tiêu biểu đó là
tư tưởng Thiên nhân hợp nhất.
Trong triết học của trường phái Nho gia quan niệm Thiên nhân hợp nhất
được hình thành từ rất sớm. Trong sách Kinh Lễ có viết: con người là đức của trời
đất, là sự giao hợp của âm – dương, là sự hội tụ của quỷ thần, là khí ưu tú của ngũ
hành. Ở đây con người được coi như là kết quả của sự hội tụ mọi tinh hoa của thế
giới vật chất và tinh thần. Con người muôn thuở là anh linh của muôn vật, chúa tể
của muôn loài. Từ cơ sở đó, các nhà tư tưởng đi đến kết luận được nói đến trong
sách Kinh Dịchcon người cùng với trời đất là tiêu biểu cho tất cả.
Có thể thấy rằng ngay từ khi xuất hiện tư tưởng Thiên nhân hợp nhất
Nho gia đã có quan niệm con người được sinh ra từ giới tự nhiên, hay con
người chính là một sản phẩm ưu tú của giới tự nhiên.
Tiếp thu quan điểm ấy các nhà Nho như Khổng tử, Mạnh tử, Tử Tư cho
rằng: con người do trời sinh ra, vạn vật đều ở trong tâm con người, vì thế, con
người hoàn toàn có thể suy từ tâm mình để biết vạn vật, hiểu được trời đất.
21


Tuy nhiên, để làm được điều này con người phải biết mệnh trời, hiểu và tuân
theo đạo trời, mệnh trời. Khổng Tử từng thừa nhận “năm mươi tuổi biết được
mệnh trời”, từ đó ông có thể “chỉ dựa vào một đạo lý mà thông suốt mọi điều”
[25,tr565]. Có thể nhận thấy càng về sau, các Nho gia càng hoàn thiện thêm
tư tưởng Thiên nhân hợp nhất. Các Nho gia không chỉ khẳng định con người
là một sản phẩm của giới tự nhiên mà còn đưa ra quan điểm khẳng định mối
quan hệ hài hòa và bền chặt giữa tự nhiên và con người. Trong đó giới tự
nhiên tức “trời” đóng vai trò quyết định đối với con người. Tuy nhiên, con
người có thể hiểu được mệnh trời chính là bậc chí thành có thể sánh ngang
với trời đất.
Biết được mệnh trời và tuân theo mệnh trời, Khổng – Mạnh đã cố gắng
phát huy điều nhân trời ban, tìm nó ngay trong bản thân mình bằng cách dẹp bỏ

trọng nhất. Theo sự giải thích của Dịch truyện, tính chất của bát quái, kết cấu
của sáu hào và kết cấu sắp đặt của 64 quẻ đều thể hiện quan hệ thiên, địa,
nhân. Ví dụ, trong bát quái, tính chất của Càn là kiện, kiện cũng là tính chất
của thiên (trời); tính chất của Khôn là thuận, thuận cũng là tính chất của đất
(địa). Mặc dù bát quái thủ tượng có thể đa dạng, linh hoạt, nhưng hai quẻ
Càn, Khôn chủ yếu thủ tượng trời đất. Bát quái chồng lên nhau thành 64 quẻ,
ba vạch thành sáu vạch, cũng chính sự biểu hiện ý nghĩa của thiên, địa, nhân.
Trong sáu nét sơ, nhị, tam, tứ, ngũ, thượng thì ngũ thượng ở trên đại diện cho
thiên, sơ, nhị ở dưới đại diện cho địa, tam tứ ở giữa đại diện cho nhân. Do đó,
hệ từ thượng truyện giải thích ý nghĩa của lục hào: Dịch thi vi thư dã, quảng
đại tất bị: Hữu thiên đạo yên, hữu nhân yên, hữu địa đạo yên. Kiêm tam tài
nhi lưỡng chi, cố lục. Lục giả phi tha dã, tam tài chi đạo dã. Dịch là sách có
phạm vi bao quát đầy đủ, rộng lớn, trong đó có đạo trời, đạo người, đạo đất.
Nó kết hợp tam tài và nhân đôi nên thành sáu hào. Sáu hào này vẫn là nó, là
đạo tam tài thôi.
Việc sắp xếp kết cấu của 64 quẻ càng biểu hiện ý nghĩa của tam tài
thiên, địa, nhân. Hai quẻ Càn Khôn đặt ở đầu, đại diện cho sự sản sinh, nuôi

23


dưỡng vạn vật, con người được bao hàm trong vạn vật. Có thể nói, con người
và vạn vật cùng một loại, đều là sản vật của trời đất, là một sản phẩm của giới
tự nhiên. Mặc dù, xuất phát từ giới tự nhiên và dần dần độc lập với giới tự
nhiên, thành một bộ phận của ngang hàng với thiên, địa, nhưng xét về thuộc
tính bản chất của con người nó vẫn giữ được quan hệ hài hòa vốn có giữa
thiên và địa.
Thứ hai, khẳng định sự hoàn toàn khác biệt giữa thiên và nhân, khẳng
định tính chủ thể của con người, Chu Dịch đi đến tiền đề cơ bản về sự hài hòa
giữa thiên và nhân. Tuy nhiên, con người là sản vật của thiên địa, là một bộ

nhân hiệu chi – trời đất biến đổi, thánh nhân làm theo” [32, tr.1194], nhưng
thực chất không chỉ thánh nhân, quân tử, hiền nhân mà còn cả trăm họ, đều
theo đạo trời đất mà làm việc, chỉ khác ở chỗ quân tử tự giác, mà trăm họ tự
nhiên. Việc nhân loại bắt chước theo trời đất có thể biểu hiện ra dường như ở
tất cả các phương diện, một trong các phương diện đó quan trọng nhất là
phẩm cách của con người. Có thể thấy rằng, quy luật của trời và con người
giống nhau ở tính khách quan, con người vừa phải phục tùng quy luật phổ
biến. Con người tuân thủ phép tắc tự nhiên không hoàn toàn bị động mà chủ
động, luôn cố gắng không ngừng nghỉ, có chủ kiến, trên cơ sở nhận thức quy
luật tự nhiên mới tiến hành hỗ trợ, tiết chế và điều chỉnh tự nhiên, nhu cầu của
nhân loại và tự nhiên càng cần có sự hòa điệu. Tiếp theo lý tưởng cao nhất của
nhân sinh là sự hài hòa giữa trời và người, tức là đạt đến sự thống nhất cao độ
giữa chủ thể và khách thể, đây là mức độ cao nhất của tư tưởng thiên nhân
hợp nhất.
Chu Dịch cho rằng, đạo người và đạo trời thống nhất tuyệt đối, hài hòa
tuyệt đối, quy luật của tự nhiên và quy luật của con người là một, con người
với tư cách là chủ thể nhận thức, với vấn đề quan hệ chủ yếu với trời như thế
nào để đạt tới và thích ứng với trời mà không trái với đạo trời. Chu Dịch cũng
không đưa ra bất kỳ phương pháp gì để khống chế trời, chiến thắng trời, cải

25


Trích đoạn Tư tưởng thiờn nhõn hợp nhất trong Đạo giỏo. Tư tưởng thiờn nhõn hợp nhất trong thuyết Âm dương – Ngũ hành. Thực trạng mụi trường sinh thỏi ở Việt Nam hiện nay Phương hướng chiến lược bảo vệ mụi trường sinh thỏi ở Việt Nam hiện naytrờn cơ sở vận dụng tư tưởng Thiờn nhõn hợp nhất Một số giải phỏp chủ yếu nhằm nõng cao hiệu quả bảo vệ mụi trường sinh thỏi ở Việt Nam hiện nay trờn cơ sở vận dụng tư tưởng Thiờn
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status