Một số giải pháp và kiến nghị đối với ngành viễn thông trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Pdf 33


1
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đang bước vào một thời đại kinh tế mới, đó là thời đại của nền kinh
tế tri thức, thời đại của xã hội thông tin. Trong chính sách phát triển của các quốc
gia trong đó có Việt Nam, viễn thông luôn được coi là một ngành kinh tế kỹ thuật
quan trọng và là một trong những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn ảnh hưởng tới sự phát
triển của nền kinh tế, đồng thời là lĩnh vực ảnh hưởng nhạy cảm đối với an ninh,
chính trị của quốc gia.
Trên thế giới, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra một cách mạnh
mẽ, nó lôi cuốn các quốc gia, các ngành, các lĩnh vực tham gia cuộc chơi chung vì
những lợi ích mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại. Trong xu thế này, Việt Nam nói
chung và ngành viễn thông nói riêng đã và đang tích cực tham gia quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế mà mục tiêu đặt ra là gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
vào cuối năm nay, năm 2005.
Bắt đầu từ năm 2003, các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến ngành
viễn thông bắt đầu có hiệu lực, trong đó đặc biệt là Hiệp định Thương mại Việt Nam
Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang trong giai đoạn cuối gấp rút đàm
phán gia nhập WTO, do đó việc nghiên cứu về thực trạng hội nhập của ngành viễn
thông trong thời gian qua là rất cần thiết.
Xuất phát từ vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài: Ngành viễn thông Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế làm đề tài luận văn cao học. Trong
luận văn này, tác giả chỉ ra những yêu cầu của hội nhập, mà đặc biệt là các yêu cầu
của Hiệp định Thương mại Việt Nam Hoa Kỳ, yêu cầu của WTO về lĩnh vực viễn
thông, phân tích những vấn đề mà Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu và những vấn
đề mà cần phải rà soát, điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của hội nhập.
2. Mục đích của chuyên đề
Chuyên đề đi sâu phân tích thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của ngành
viễn thông Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở phân tích những thực trạng đó,


Lý thuyết về hội nhập kinh tế quốc tế và thể chế hội
nhập kinh tế quốc tế của ngành viễn thông

1.1 Những khái niệm chung và các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1 Khái niệm và vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập (hay liên kết) kinh tế quốc tế được hiểu là quá trình các nền kinh tế
thế giới kết hợp với nhau một cách có hiệu quả và phụ thuộc lẫn nhau. Hội nhập
kinh tế quốc tế được coi là một khâu trong quá trình phát triển và là tiền đề của sự
phát triển bền vững.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của mọi quốc gia trên thế giới.
Một quốc gia nếu không muốn tụt hậu thì không thể không tham gia vào quá trình
quốc tế hoá đời sống kinh tế, hội nhập nền kinh tế quốc tế, tham gia vào phân công
lao động và hợp tác quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại những lợi ích kinh tế mà không phải quốc
gia nào cũng có được. Hội nhập thực hiện tự do hoá thương mại tạo điều kiện cho
mỗi quốc gia thành viên có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ,
trình độ quản lý. Về lâu dài, tự do hoá thương mại góp phần tăng năng suất lao
động, tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra cho các quốc gia những
thách thức mới cần phải xử lý cho phù hợp với quá trình tự do hoá thương mại.
Những thách thức đó là: phải điều chỉnh lại các cân đối trong nền kinh tế trên cơ sở
xoá bỏ những hạn chế về thương mại như thuế quan, hàng rào phi thuế quan; vấn đề
việc làm và giải quyết thất nghiệp; cải cách hệ thống tài khoá
Phương thức hội nhập: các quốc gia tiến hành cam kết mở cửa cho phép các
doanh nghiệp, công dân của các quốc gia khác thâm nhập vào thị trường của mình
theo các quy định nhất định trên cơ sở thoả thuận song phương, đa phương. Về cơ
bản các cam kết được xây dựng trên cơ sở lĩnh vực thương mại hàng hoá và thương
mại dịch vụ.

4

bán với các quốc gia ngoài khối, tức là mỗi thành viên có thể có chính sách
ngoại thương riêng đối với các quốc gia ngoài khối (các quốc gia ngoài liên
minh). Hiện nay các liên kết như EFTA (European Free Trade Area),
NAFTA (North American Free Trade Agreement); AFTA (ASEAN Free
Trade Area) là những liên kết tiêu biểu thuộc hình thức liên kết này.
b) Liên minh hải quan hay đồng minh hải quan (Customs Union)
Đây là liên minh quốc tế nhằm tăng cường hơn nữa mức độ hợp tác giữa các
nước thành viên. Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia trong liên minh bên
cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các quốc gia
thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối đối với các
quốc gia ngoài liên minh, tức là phải thực hiện chính sách thuế quan chung đối với
các nước không phải là thành viên. Thí dụ, Cộng đồng kinh tế Châu Âu ở thời kỳ
trước 1992 (European Economic Community).
c) Thị trường chung (Common Market)
Là liên kết quốc tế ở mức độ cao hơn liên minh hải quan. ở mức độ liên kết
này, các thành viên ngoài việc áp dụng các biện pháp tương tự như liên minh thuế
quan trong trao đổi thương mại, các thành viên còn thoả thuận và cho phép: tư bản
và lực lượng lao động được tự do di chuyển giữa các nước thành viên thông qua từng
bước hình thành thị trường thống nhất. (Các quốc gia trong cộng đồng kinh tế châu
Âu EEC từ năm 1992 thuộc loại hình liên kết này).
d) Liên minh kinh tế
Là liên minh quốc tế với một mức độ cao hơn về sự tự do di chuyển hàng
hoá, dịch vụ, vốn và lao động giữa các quốc gia thành viên, đồng thời thống nhất
biểu thuế quan chung áp dụng cho cả các nước không phải là thành viên. Ngoài ra
các nước thành viên còn phối hợp các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ (liên
minh Châu Âu (EU) từ năm 1994 được coi là liên minh kinh tế).

6
e) Liên minh tiền tệ (Monetary Union)
Đây là hình thức liên kết kinh tế với các mục tiêu:

ASEAN (AIC), Dự án công nghiệp ASEAN (AIP), Chương trình liên doanh công
nghiệp ASEAN (AIJV). Tuy nhiên, thời kỳ này chưa có những thành tựu hợp tác
kinh tế đáng ghi nhận trong khối.
Một mốc đánh dấu sự chuyển đổi trọng tâm hợp tác của ASEAN sang các
vấn đề kinh tế là việc các nước ASEAN quyết định thành lập Khu vực thương mại tự
do ASEAN (AFTA) vào năm 1992. Khu vực thương mại tự do ASEAN dựa trên các
yếu tố cơ bản sau:
- Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT).
- Thống nhất công nhận tiêu chuẩn hàng hoá giữa các nước thành viên.
- Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá.
- Xoá bỏ những qui định hạn chế đối với hoạt động thương mại
- Tăng cường hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô
Trong các yếu tố trên chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung có vai
trò quan trọng nhất.
Ngoài Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung ASEAN còn có các
chương trình và hiệp định hợp tác quan trọng như:
- Hiệp định khung về đầu tư của ASEAN
- Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO)
- Hiệp định khung về dịch vụ của ASEAN (AFAS), và hai nghị định thư cam
kết giảm hàng rào thương mại trong 7 lĩnh vực dịch vụ gồm tài chính, vận tải
biển, du lịch, xây dựng, hàng không, kinh doanh và bưu chính viễn thông
- Xúc tiến ký kết Hiệp định khung e-ASEAN.

8
Ngay sau khi trở thành thành viên của ASEAN, Việt Nam đã cam kết tích cực
tham gia các chương trình và hoạt động của Hiệp hội trong đó có việc thực hiện
CEPT/AFTA. Tại Hội nghị Hội đồng AFTA ngày 10/12/1995, Việt Nam đã công bố
các danh mục và lộ trình cắt giảm thuế qua cho toàn bộ thời kỳ 1996-2000, gồm
1633 nhóm mặt hàng, chiếm 50,1% tổng các nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập
khẩu của Việt Nam. Trong lộ trình cắt giảm thuế này, danh mục các mặt hàng đưa

9
các cam kết về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan, áp dụng thống nhất Hiệp
định trị giá hải quan của WTO v.v...
1.2.2 Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC)
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) được thành lập
năm 1989 ở Australia với 12 nước ban đầu. Đến nay, số thành viên của APEC đã là
21 nước. APEC gồm hai nền kinh tế mạnh nhất thế giới là Mỹ và Nhật Bản, cùng với
các nền kinh tế tăng trưởng nhanh ở Đông á như Trung Quốc, NIEs châu á, các nước
ASEAN. APEC là một khu vực kinh tế lớn nhất thế giới, bởi lẽ APEC có cả thành
phần của Khu vực Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), có cả thành phần của Khu
vực Thương mại tự do ASEAN AFTA, cũng như thành phần của khu vực hợp tác kinh
tế giữa Australia và Niu Dilân. Các nền kinh tế thành viên APEC hiện chiếm tới 57%
tổng sản phẩm GDP của thế giới, khoảng 14.469 tỷ USD, và gần một nửa thương mại
toàn cầu
(1)
. Đối với Việt Nam, quan hệ thương mại với các nền kinh tế thành viên
APEC chiếm khoảng 62% cơ cấu xuất khẩu và 72% cơ cấu nhập khẩu
(2)
.
Tuyên bố Xơ-un 1991 đề ra 4 mục tiêu phát triển trong APEC gồm:
- Duy trì tăng trưởng và phát triển, vì lợi ích chung của nhân dân các quốc gia
trong khu vực, góp phần vào tăng trưởng và phát triển chung của kinh tế thế giới.
- Phát huy những tác động tích cực của sự phụ thuộc kinh tế ngày càng tăng
đối với kinh tế khu vực và thế giới bằng cách đẩy mạnh sự giao lưu hàng hoá,
dịch vụ, vốn và công nghệ.
- Xây dựng và tăng cường hệ thống thương mại đa biên, vì lợi ích của châu á -
Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác.

(1) Việt Nam: Hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - vấn đề và giải pháp, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2002, Tr.441 440

chậm chạp.
Tuy vậy, xét về ba trụ cột của APEC, có thể thấy vấn đề tự do hoá thương mại
và tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư vẫn là chủ đề mà các thành viên APEC
tiếp tục theo đuổi và tập trung thực hiện. Bên cạnh đó, Chương trình hợp tác kinh tế

11
kỹ thuật (ECOTECH), trong đó nhấn mạnh đến công tác xây dựng năng lực, thu
hẹp khoảng cách, phát triển nguồn nhân lực đang trở thành một vấn đề được các
thành viên APEC quan tâm và chú trọng hơn bao giờ hết.
Việt Nam gia nhập APEC năm 1998. Tuy là một nền kinh tế đang phát triển
trong giai đoạn chuyển đổi. Việt Nam đã tích cực tham gia vào các chương trình
hoạt động của APEC. Tháng 10/1998, Việt Nam đã hoàn thiện Chương trình hành
động quốc gia và nộp cho APEC, sau đó hàng năm chung ta tiếp tục nâng cấp và
cụ thể hoá hơn các cam kết đưa ra trong IAP. Cam kết và thực hiện IAP của Việt
Nam được coi là nghiêm túc nhất trong số các thành viên mới gia nhập (đã mở
rộng cam kết trong 11 trên tổng số 15 lĩnh vực). Trong thời gian tới, Việt Nam tập
trung dành ưu tiên cho chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật, tham gia có chọn
lọc một số Kế hoạch hành động cụ thể (CAP) như thủ tục hải quan, tiêu chuẩn chất
lượng, du lịch
1.2.3 Tổ chức thương mại thế giới
a) Tổng quan về Tổ chức thương mại thế giới
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một tổ chức quốc tế điều phối thương
mại toàn cầu có vai trò quan trọng bậc nhất hiện nay. WTO hiện có 148 nước thành
viên và chiếm tới 97% thương mại của thế giới. Là thành viên của WTO các nước sẽ
được hưởng các định chế thương mại và một môi trường thương mại bình đẳng hơn
trong khối, đương nhiên đi kèm với thuận lợi này là những thách thức lớn hơn khi
hàng rào bảo hộ của quốc gia bị dỡ bỏ.
Việt Nam đang trong quá trình đàm phán để sớm trở thành thành viên của
WTO. Đây là một bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
của đất nước. Trở thành thành viên của WTO sẽ làm thay đổi sâu sắc môi trường

Thương mại tự do hơn: nguyên tắc này yêu cầu các nước thành viên phải
ngày càng mở cửa thị trường, giảm dần các rào cản thương mại gồm cả các rào cản
thuế quan và phi thuế quan như hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu v.v Các vòng đàm
phán của GATT và WTO đã liên tục cắt giảm thuế quan và xoá bỏ nhiều rào cản phi

13
thuế quan khác. Hiện nay, biện pháp phi thuế quan hạn ngạch đã không được phép
áp dụng trong WTO trừ một ngoại lệ là hàng dệt may.
Có thể dự đoán: hệ thống thương mại đa phương yêu cầu các chính phủ phải
tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định và có thể dự đoán. Điều đó sẽ khuyến
khích đầu tư, tạo thêm việc làm và người tiêu dùng có thể hưởng lợi nhờ tăng khả
năng lựa chọn hàng hoá dịch vụ với giá cả thấp. Một biện pháp để đạt được điều đó
là WTO yêu cầu các chính phủ phải đặt ngưỡng cho các cam kết mở cửa thị trường
của mình. Ví dụ, đó là mức thuế ngưỡng, tức là mức thuế trần đối với hàng hoá nhập
khẩu mà chính phủ cam kết trong tương lai không được nâng thuế vượt hoặc không
cho phép áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng đối với xuất khẩu. Ngoài ra,
WTO còn yêu cầu các chính phủ phải minh bạch hoá chính sách thương mại thông
qua việc công khai hoá chính sách và việc thực thi chính sách ở trong nước và thông
báo thường xuyên cho WTO.
Khuyến khích cạnh tranh công bằng: quy tắc không phân biệt đối xử
(MFN và NT) được xem là qui tắc để đảm bảo sự cạnh tranh công bằng. Ngoài
ra, WTO còn có các quy tắc và hiệp định khác nhằm khuyến khích sự cạnh tranh
công bằng như các quy tắc về trợ cấp và chống bán phá giá, hiệp định về mua
sắm của chính phủ.
Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế: WTO đề ra các quy tắc và luật lệ
thương mại chung cho tất cả các nước thành viên. Tuy nhiên, trình độ phát triển của
các nước thành viên lại rất không đồng đều. Khoảng hai phần ba thành viên của
WTO là các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Các nước
này có vị trí ngày càng quan trọng trong các diễn đàn của WTO và thương mại thế
giới. Do vậy, WTO cho phép các nước kém phát triển được hưởng một số ưu đãi khi

+ Hiệp định quốc tế về bơ sữa

15
+ Hiệp định quốc tế về thịt bò
d) Đàm phán gia nhập WTO
Về nguyên tắc bất kỳ một quốc gia hay vùng lãnh thổ hải quan nào có đầy đủ
quyền tự chủ trong việc tiến hành các hoạt động ngoại thương đều có thể xin gia
nhập WTO. Để trở thành thành viên của WTO, các quốc gia hoặc nền kinh tế phải
tiến hành đàm phán.
e) Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam
Tháng 1 năm 1995, Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ngày 31 tháng 1
năm 1995, nhóm công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, gồm 40 thành viên là các
đối tác thương mại chủ yếu của Việt Nam, đã được thành lập. Tháng 8 năm 1996,
Việt Nam hoàn thành và gửi cho WTO và các thành viên của nhóm công tác bản vị
vong lục về các thể chế và chính sách thương mại của Việt Nam. Đây là tài liệu chính
thức đầu tiên giải thích một cách toàn diện các chính sách, các vấn đề thương mại
hàng hoá, dịch vụ, thuế quan, đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam.
Có thể chia quá trình đàm phán làm ba giai đoạn: giải thích chính sách
thương mại; đàm phán về thực chất; và đột phá trong đàm phán. ở giai đoạn thứ
nhất, bên cạnh việc trả lời các câu hỏi của các thành viên của Nhóm công tác, Việt
Nam còn gửi cho WTO các tài liệu có liên quan. Từ 1998 đến 2000 đã có bốn cuộc
họp của Nhóm công tác. Trong thời kỳ này, Việt Nam đã trả lời 1700 câu hỏi liên
quan đến tất cả các khía cạnh của chính sách kinh tế và thương mại, và đã chuyển
cho WTO các chương trình thực hiện các hiệp định đa phương về GATS, TRIMs,
TRIPs và báo cáo về tình hình trợ cấp cho các sản phẩm nông nghiệp v.v Khi giai
đoạn này kết thúc vào tháng 11 năm 2000, các thành viên của nhóm công tác đã
nắm được một cách khái quát về chính sách thương mại của Việt Nam.
Đàm phán về thực chất bao gồm các cuộc đàm phán đa phương và song
phương. Đàm phán đa phương tập trung vào việc rà soát lại hệ thống luật pháp và
các chính sách thương mại dựa theo các định chế của WTO. Trọng tâm của các cuộc

WTO ở Hồng Kông cuối năm nay.
1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực viễn thông của Việt Nam
1.3.1 Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực viễn thông Việt Nam

17
Hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện ở việc tham gia của ngành viễn thông
Việt Nam vào hoạt động của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế như Hiệp hội
các nước Đông Nam á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á - Thái Bình
Dương (APEC), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng như tham gia vào các
hiệp định khung của ASEAN về dịch vụ (AFAS), ITU, UPU, APPU các tổ chức
kinh tế khu vực và quốc tế hay các Hiệp định thương mại có các yêu cầu khác nhau
song đều có chung một số mục tiêu và nguyên tắc cơ bản hướng tới như: tự do hoá
thương mại, không phân biệt đối xử , công bằng và bình đẳng trong cạnh tranh, luật
lệ, chính sách minh bạch, công khai và ổn định.
1.3.1.1 Các cam kết về viễn thông của Việt Nam trong Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam á (ASEAN)
Các cam kết về dịch vụ viễn thông của các nước trong ASEAN thể hiện trong
Hiệp định khung của ASEAN về thương mại dịch vụ (AFAS). Phù hợp với GATS,
AFAS buộc các nước thành viên ASEAN phải tuân thủ triệt để quy chế đãi ngộ Tối
huệ quốc và đãi ngộ quốc gia. Các nước thành viên phải thông báo các giới hạn về
đãi ngộ quốc gia cho từng phương thức của bốn phương thức cung cấp dịch vụ viễn
thông. Cụ thể, trong ASEAN, Việt Nam cam kết không hạn chế việc cung cấp dịch
vụ viễn thông đối với phương thức (1) cung cấp dịch vụ qua biên giới và phương
thức (2) tiêu thụ dịch vụ ở nước ngoài.
Đối với phương thức (3) hiện diện thương mại, Việt Nam đã cam kết mở cửa
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ giá trị
gia tăng trên cơ sở các Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh (BCC) với các nhà cung cấp
dịch vụ Việt Nam trong các loại hình dịch vụ sau đây: dịch vụ thư điện tử, dịch vụ
thư thoại, dịch vụ trao đổi dữ liệu điện tử, dịch vụ telex, dịch vụ điện báo, truyền số
liệu chuyển mạch gói, truyền số liệu chuyển mạch kênh, dịch vụ facsimile, dịch vụ

còn hạn chế, mới dừng lại ở mức tối thiểu là chế độ đãi ngộ Tối huệ quốc và về cơ
bản dựa trên các cam kết của Việt Nam trong ASEAN.
1.3.1.3 Các cam kết về viễn thông của Việt Nam trong Hiệp định Thương mại Việt
Nam Hoa Kỳ.

19
Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ có hiệu lực từ ngày 10 tháng 12
năm 2001. Hiệp định sẽ được xem xét gia hạn 3 năm một. Các cam kết về dịch vụ
viễn thông trong Hiệp định được hai bên thoả thuận trên cơ sở của các nguyên tắc
theo chuẩn của WTO trong Tài liệu tham chiếu.
Nguyên tắc hợp tác chung kể từ khi Hiệp định có hiệu lực (10/12/2001) đối
với tất cả các loại hình dịch vụ viễn thông là:
Việc cung cấp dịch vụ qua biên giới, các công ty Hoa Kỳ chỉ được ký kết qua
các thoả thuận khai thác với các nhà khai thác trạm cổng của Việt Nam.
Để đầu tư vào Việt Nam, các công ty Hoa Kỳ chỉ được phép hợp tác kinh
doanh theo hình thức Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh với đối tác Việt Nam được
phép cung cấp dịch vụ viễn thông.
Hiệp định quy định cho phép các công ty Hoa Kỳ thành lập liên doanh cung
cấp dịch vụ viễn thông với những hạn chế khác nhau về vốn và thời gian. Đối với
từng loại hình dịch vụ cụ thể, lộ trình mở cửa để các công ty Hoa Kỳ thâm nhập vào
thị trường viễn thông Việt nam được quy định cụ thể là:
Đối với các dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng:
Từ ngày 10/12/2003, các công ty Hoa Kỳ được phép thành lập liên doanh
(riêng dịch vụ Internet thời điểm áp dụng là 10/12/2004), với mức giới hạn cổ phần
tối đa là 50% vốn pháp định của liên doanh.
Đối với các dịch vụ viễn thông cơ bản:
Từ ngày 10/12/2005 (tức là sau 4 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực), các
công ty Hoa Kỳ được phép thành lập liên doanh, với mức giới hạn cổ phần tối đa là
49% vốn pháp định của liên doanh.
Đối với các dịch vụ điện thoại cố định bao gồm nội hạt, đường dài trong nước

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Đối với hình thức hiện diện thể nhân, Việt Nam chưa đưa ra các cam kết cụ
thể ngoài các cam kết nền chung.
1.3.1.4 Các quy định của WTO về lĩnh vực viễn thông

21
Về lĩnh vực dịch vụ viễn thông, phụ lục về viễn thông của GATS là các cam
kết về viễn thông mà các nước thành viên của WTO phải tuân thủ. Đó là:
Sự minh bạch yêu cầu phải được thể hiện toàn diện từ việc mở cửa thị trường,
việc sử dụng dịch vụ và mạng thông tin công cộng, điều kiện về dịch vụ, biểu giá
cước, đến việc quy định về chỉ số kỹ thuật của mạng và dịch vụ, tiêu chuẩn của việc
thâm nhập và sử dụng mạng và dịch vụ, các điều kiện về cấp phép.
Sự thâm nhập và sử dụng dịch vụ: thể hiện ở việc:
Từng quốc gia thành viên phải đảm bảo cho bất kỳ nhà khai thác viễn thông
nào của các quốc gia thành viên khác sẽ có được khả năng thâm nhập và sử dụng
dịch vụ và hệ thống thông tin viễn thông công cộng với những điều khoản và điều
kiện hợp lý, không phân biệt đối xử.
Từng thành viên đảm bảo các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông của bất kỳ
một thành viên nào khác của GATS có khả năng thâm nhập và sử dụng mọi hệ thống
thông tin viễn thông công cộng và dịch vụ được cung cấp trên toàn bộ lãnh thổ của
thành viên đó bằng cách: mua hoặc thuê các điểm đầu cuối hoặc các thiết bị khác
vào dịch vụ, kết nối mạch thuê riêng hoặc mạch thuộc sở hữu của các nhà khai thác
khác vào mạng viễn thông công cộng, sử dụng các phương thức khai thác do các nhà
cung cấp dịch vụ lựa chọn.
Các yêu cầu này chỉ có hiệu lực nếu các nước thành viên đưa vào bản cam kết
của mình. Tuy nhiên, sức ép về tự do hoá viễn thông và công nghệ thông tin (CNTT)
đối với các nước muốn gia nhập WTO là rất lớn, vì từ tháng 11/1998, 89 quốc gia
thành viên của WTO có thu nhập viễn thông chiếm 90% toàn thế giới đã đồng ý mở
cửa thị trường viễn thông của mình. Trung Quốc cũng đã phải đưa ra lộ trình cam kết
mở cửa của mình trong từng lĩnh vực như: máy tính và các dịch vụ liên quan, dịch vụ

được tự do hoá từ năm 1998 tại toàn bộ các quốc gia trừ Bồ Đào Nha. Với Nhật Bản
là tự do hoá hoàn toàn trừ giới hạn nắm giữ cổ phần trong NTT và KDD bị giới hạn
ở mức 20%.
Ngay sau khi đạt được những thoả thuận nhượng bộ trong lĩnh vực dịch vụ
viễn thông cơ bản, các quốc gia thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới cũng

23
đã chuẩn bị các cơ sở cần thiết cho việc tiếp tục gia tăng các cam kết đối với các
dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng. Ngày 1/2/1998, Hiệp định Viễn thông cơ bản đã
có hiệu lực. Đi kèm với Hiệp định Viễn thông cơ bản là một văn kiện quan trọng có
tên gọi là Tài liệu tham chiếu. Tài liệu tham chiếu là các quy định cơ bản chi tiết với
các nội dung về các định nghĩa và các nguyên tắc về khung pháp lý nhà nước đối với
các dịch vụ viễn thông cơ bản.
Các định nghĩa cơ bản này hiện thời đang được áp dụng tại các quốc gia tham
gia vào Hiệp định cũng như các quốc gia hướng đến việc gia nhập WTO như Việt
Nam, bao gồm định nghĩa về người sử dụng viễn thông, các phương tiện cơ bản, nhà
cung cấp chính. Hiệp định quy định các nguyên tắc quan trọng về các lĩnh vực như
các biện pháp bảo vệ cạnh tranh, biện pháp tự vệ, các tập quán chống cạnh tranh,
các vấn đề về kết nối, thủ tục đối với việc thương lượng kết nối, minh bạch các thoả
thuận kết nối, giải quyết tranh chấp kết nối. Tài liệu tham chiếu cũng đề cập đến các
vấn đề về dịch vụ phổ cập đại chúng, cấp phép. Tài liệu tham chiếu trở thành nội
dung cơ bản cho việc xây dựng và hình thành các cơ chế điều chỉnh trong cơ quan
quản lý viễn thông sẽ không thể tự do định đoạt hay xác lập các cơ chế điều chỉnh
một khi đã là thành viên của Hiệp định viễn thông cơ bản.
1.3.2 Đàm phán gia nhập WTO trong lĩnh vực bưu chính viễn thông
Kể từ khi nộp đơn xin gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã bốn lần cải thiện
bản chào đa phương về dịch vụ. Bản chào mới nhất (lần thứ 4) về viễn thông và
CNTT được đưa ra vào tháng 4 năm 2004, về tổng thể đã đi theo nguyên tắc hiệp
định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ (BTA) cắt ngang lộ trình: các hạn chế then
chốt về hình thức đầu tư nước ngoài, giới hạn sở hữu vốn, lộ trình mở cửa thị trường

hơn các nước gia nhập trước và một số nước cầm trịch việc gia nhập WTO
không muốn tạo ra một tiền lệ xấu trong trường hợp Việt Nam.
- Gắn đàm phán song phương với đàm phán đa phương về các luật lệ và quy
tắc chung của WTO: liên qua đến viễn thông và CNTT có các vấn đề như cổ
phần hoá, doanh nghiệp nhà nước, chính sách quản lý giá, chính sách cấp
phép, vài trò của các doanh nghiệp nhà nước trong thương mại quốc tế (hoạt

25
động xuất nhập khẩu: việc đánh giá là cần thiết để xác định xem các doanh
nghiệp nước ngoài có thể bị bất lợi trong cạnh tranh ở mức độ nào)
Những yêu cầu cụ thể mà một số nước đưa ra đối với viễn thông đều là những
vấn đề hết sức nhạy cảm đối với Việt Nam, cụ thể:
- Cách đưa ra cam kết mở cửa thị trường viễn thông: yêu cầu Việt Nam đưa ra
được lộ trình đi đến tự do hoá hoàn toàn (cho phép công ty 100% vốn nước
ngoài), thời gian chuyển đổi có thể đàm phán. Thị trường dịch vụ có thể chia
thành bán lại và cung cấp dịch vụ có hạ tầng mạng, theo đó thị trường bán lại
dịch vụ mở trước. Liên quan đến đầu tư gián tiếp vào các nhà khai thác đã có,
một số nước cho rằng giới hạn 30% như hiện thời là thấp, tuy nhiên họ hiểu
mối quan ngại của Việt Nam đối với VNPT, VIETEL và do vậy sẵn sàng
dành một giới hạn riêng cho các nhà khai thác then chốt này của Việt Nam.
- Dịch vụ viễn thông mới chưa được phân loại chính thức trong WTO dịch
vụ giá trị gia tăng: một nước đề nghị Việt Nam có cam kết chung cho tất cả
các dịch vụ viễn thông được phân loại là dịch vụ giá trị gia tăng theo như
định nghĩa trong WTO các dịch vụ trong đó nhà cung cấp dịch vụ bổ sung
giá trị vào thông tin của khách hàng với việc cải thiện khuôn dạng hoặc nội
dung cung ứng cho khách hàng khả năng lưu giữ hay khôi phục. Một số
nước đặc biệt quan tâm đến dịch vụ VOIP, dịch vụ mạng riêng ảo IP (IP
VPN, VPN MPLS), dịch vụ mạng số liệu có quản lý (managed data network
services MDNS). Đối với những dịch vụ này, việc được phép thành lập công
ty 100% vốn nước ngoài là vấn đề nguyên tắc đối với họ.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status