Tuyển chọn, xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập rèn luyện tư duy cho học sinh trong dạy học phần kim loại thuộc chương - Pdf 32

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRỊNH ANH TUẤN

TUYỂN CHỌN, XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI
TẬP RÈN LUYỆN TƯ DUY CHO HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC PHẦN KIM LOẠI THUỘC CHƯƠNG TRÌNH NÂNG
CAO TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Chuyên ngành: Lí luận và Phương pháp dạy học bộ môn hóa học
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG

VINH – 2012


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
- Thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Xuân Trường – giảng viên trường Đại Học
sư phạm Hà Nội đã giao đề tài, tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất cho tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
- Thầy cô giáo: PGS.TS. Nguyễn Văn Năm và TS. Nguyễn Thị Bích Hiền
đã dành nhiều thời gian đọc và viết nhận xét cho luận văn.
- Ban chủ nhiệm khoa Sau đại học, Ban chủ nhiệm khoa Hoá học cùng các
thầy giáo, cô giáo thuộc Bộ môn Lí luận và phương pháp dạy học hoá học khoa Hoá
học trường ĐH Vinh và ĐHSP Hà Nội đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất

Dung dịch
Kim loại
Điều kiện tiêu chuẩn
Hỗn hợp
Phương trình phản ứng
Phản ứng
Phương trình hoá học
Công thức phân tử
Định luật bảo toàn nguyên tố
Bảo toàn khối lượng
Khối lượng phân tử trung bình
Khối lượng nguyên tử trung bình
Sách giáo khoa
Sách bài tập
Bài tập
Thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm
Đối chứng

Từ viết tắt
HS
GV
THPT
GD
PPDH
BTHH
dd
KL
đktc
hh

dục, sách giáo khoa nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp
ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục
phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới”.
Ở trường phổ thông, đổi mới về phương pháp dạy học nghĩa là tạo mọi điều
kiện để học sinh (HS) có thể tiếp thu kiến thức một cách tích cực, tự lực và biết vận
dụng sáng tạo tri thức để giải quyết các vấn đề trong học tập và cuộc sống.
Trong nhiều năm qua, việc nâng cao chất lượng dạy và học môn hóa học ở
trường phổ thông đã được chú trọng. Tuy nhiên, nhìn chung hiệu quả của việc dạy
và học môn học này hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới trong giáo
dục. Với thực tế đó, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho người giáo viên (GV) nói chung
và GV hóa học nói riêng là phải đổi mới phương pháp dạy học, chú trọng bồi dưỡng
cho HS năng lực tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề học tập thông qua mọi nội dung,
mọi hoạt động dạy học hóa học, trong đó hệ thống bài tập hóa học giữ một vị trí hết
sức quan trọng.
Một trong những thành tố quan trọng trong quá trình dạy học của người Thầy
là mục tiêu dạy học. Để đạt được mục tiêu này, người Thầy phải khai thác có hiệu
quả, xây dựng và chọn lọc kỹ hệ thống các câu hỏi và bài tập để HS sau khi học
xong một bài hoặc một chương thì HS phải đạt được 3 mức độ của kiến thức và tư


2
duy là biết, hiểu và vận dụng được các kiến thức đó, tạo động lực thúc đẩy sự phát
triển tư duy và góp phần hình thành nhân cách của các em.
Trong hóa học, giải đáp các câu hỏi lý thuyết và giải bài tập hóa học là
phương tiện cơ bản để giúp HS gợi nhớ kiến thức, rèn luyện tư duy một cách sâu
sắc và vận dụng linh hoạt, có hiệu quả các kiến thức của mình.
Đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục theo hướng hiện đại hóa, hội nhập với
cộng đồng quốc tế và phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội nước nhà,
góp phần đào tạo nguồn nhân lực thích hợp cho giai đoạn mới.

4. Lê Như Nguyện (2009), Rèn trí thông minh cho HS thông qua việc giải
bài tập trong dạy học hóa học ở trường THPT, Luận văn thạc sỹ khoa học, ĐHSP
Vinh.
5. Cao Thị Thặng (1995), Hình thành kỹ năng giải bài tập hoá học ở trường
phổ thông trung học cơ sở, Luận án tiến sĩ, ĐHSP Hà Nội.
6. Lê Thị Kim Thoa (2009), Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập hoá
học gắn với thực tiễn dùng trong dạy học hóa học ở trường THPT, Luận văn thạc sỹ
khoa học, ĐHSP TpHCM.
7. Vũ Anh Tuấn (2003), Xây dựng hệ thống BTHH nhằm rèn luyện tư duy
trong việc bồi dưỡng HS giỏi hóa học ở trường THPT, Luận án tiến sĩ, ĐHSP Hà
Nội.
8. Nguyễn Thị Anh (2009), Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập trắc
nghiệm phần kim loại lớp 12 - THPT , Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục, ĐH
Vinh.
9. Nguyễn Thị Thuý (2010), Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập hoá học
trắc nghiệm khách quan chương ''Kim loại kiềm-kim loại kiềm thổ-nhôm'' theo
hướng dạy học tích cực, Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục, ĐH Vinh.
10. Nguyễn Thị Hải Yến (2007), Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm
khách quan phần kim loại (Chương trình lớp 12 - THPT). Luận văn thạc sỹ khoa
học giáo dục, ĐH Vinh.
11. Trần Thị Thu Sương (2009), Bồi dưỡng năng lực tư duy giải toán hoá
học cho học sinh thông qua xây dựng phương pháp giải bài tập xác định tên kim
loại, Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục, ĐH Vinh.


4
Tuy nhiên việc nghiên cứu sử dụng hệ thống BTHH hóa học phần kim loại
lớp 12 nâng cao ở các trường THPT nhằm rèn luyện tư duy cho HS vẫn chưa được
quan tâm đúng mức.
3. Mục đích nghiên cứu

6.2. Nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát sư phạm trực tiếp
- Lấy ý kiến chuyên gia.
- Thực nghiệm sư phạm.
- Phân tích kết quả thực nghiệm sư phạm.
6.3. Xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê toán học
7. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình dạy học hóa học, nếu người GV:
- Nắm vững một hệ thống phương pháp luận đúng đắn về phát triển năng lực
tư duy hóa học cho HS.
- Thật sự là người quản lí học tập, biết tổ chức và điều khiển tối ưu quá trình
dạy học.
- Lựa chọn và xây dựng được một hệ thống bài tập cơ bản, đa dạng phong
phú và phù hợp với từng mức độ phát triển tư duy của HS, đồng thời sử dụng nó
một cách linh hoạt và hợp lí.
- Chú ý coi trọng việc hướng dẫn HS tích cực, tự lực hoạt động tư duy trong
quá trình tìm kiếm lời giải.
Thì sẽ giúp cho HS:
- Có phương pháp tự học tốt.
- Phát triển năng lực giải quyết vấn đề.
- Phát triển năng lực tư duy hóa học.
- Rèn luyện tính độc lập hành động, phát triển tư duy và trí thông minh cho
HS là tiền đề quan trọng cho việc phát triển tính tích cực.
- Nâng cao hứng thú và niềm say mê học tập bộ môn.
8. Đóng góp của đề tài
- Xây dựng mới một số bài tập tự luận và trắc nghiệm có thể giải nhanh.
- Đề xuất một số biện pháp sử dụng bài tập hóa học nhằm phát triển năng lực
tư duy cho HS.



- Coi trọng hơn nữa việc tiếp thu, nghiên cứu các quan điểm phương pháp
dạy học hiện đại có chọn lọc theo hướng tiếp thu cái hiện đại nhưng vẫn tôn trọng sự
phát triển liên tục, biện chứng của phương pháp dạy học ở nước ta từ trước tới nay.


7
Xuất phát từ quan điềm có tính phương pháp luận là mỗi thành tựu về lý luận dạy
học hiện đại, khi vận dụng vào hệ thống nhà trường của ta, cần được kiểm nghiệm
trong thực tiễn hoạt động dựa trên.
- Quan điểm toàn vẹn của quá trình.
- Quan điểm cấu trúc hệ thống.
- Quan điểm vận động và phát triển có tính biện chứng của công tác dạy
học...
Những gì tồn tại, phát triển hợp lí, phù hợp với thực tiễn nhà trường và hoạt
động giáo dục (GD) ở nước ta chắc chắn sẽ tồn tại một cách bền vững và triển vọng
phát triển là liên tục. Không phải đến bây giờ chúng ta mới nói đến việc học có tính
tự lực, sáng tạo của HS, mới nói đến việc tạo ra động lực mạnh mẽ trong dạy học
nêu vấn đề, nói về cách thức tổ chức dạy học theo kiểu phân hóa và cá biệt hóa...
dựa trên tính chất của nội dung môn học, loại hình đào tạo và thông qua dạy học để
bồi dưỡng kiến thức- kĩ năng- thái độ hoạt động trong thực tiễn. Ngay trong tư
tưởng GD truyền thống của nước ta, chưa bao giờ ông cha ta coi nhẹ việc bồi dưỡng
văn hóa - đạo đức - thầm mĩ, nghĩa là xem trọng cả GD và giáo dưỡng thông qua
dạy học. Tuy nhiên, kinh nghiệm của thế giới trong hoạt động GD cũng cho thấy
rằng xu hướng chung của GD là định hướng theo khuôn mẫu, trong khi thực tế của
GD lại luôn luôn phát triển theo xu thế đa dạng hóa nhằm đáp ứng các nhu cầu của
thực tiễn, của cuộc sống. Đó là “mâu thuẫn" có tính phổ biến trong các hoạt động
GD xưa nay, không riêng gì ở nước ta. Vậy đổi mới phương pháp dạy học (PPDH)
là phát triển ở tầm cao mới sự kết hợp ấy trong điều kiện thuận lợi mới, tất nhiên ở
cấp độ và yêu cầu cao hơn, cả về lí luận và thực tiễn. Đổi mới PPDH thực chất là
một quá trình nâng cao hiệu quả của công việc dạy học, làm cho công tác này gắn

- HS phải được hoạt động nhiều hơn, HS phải được trở thành chủ thể hoạt
động, đặc biệt là hoạt động tư duy.
- Các PPDH hóa học phải thể hiện được phương pháp nhận thức khoa học
đặc trưng của bộ môn hóa học là thực nghiệm, tận dụng khai thác đặc thù môn hóa
học tạo các hình thức hoạt động của HS đa dạng, phong phú. Do đó phải tăng cường
sử dụng thí nghiệm, các phương tiện trực quan, khi sử dụng thí nghiệm và các
phương tiện trực quan phải dạy cho HS biết tự nghiên cứu và tự học.
- GV phải chú ý hình thành năng lực giải quyết vấn đề cho HS và có biện
pháp hình thành từng bước năng lực giải quyết vấn đề từ thấp đến cao.
Đó cũng là biện pháp quan trọng để tăng mức độ hoạt động trí lực chủ động
tích cực của HS và phát triển tư duy sáng tạo cho HS.


9
1.2. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý của con người
(nhận thức, tình cảm, ý chí). Nó là tiền đề của hai mặt kia và đồng thời có quan hệ
chặt chẽ với chúng và với các hiện tượng tâm lý khác.
Hoạt động nhận thức bao gồm nhiều quá trình khác nhau. Có thể chia hoạt
động nhận thức thành hai giai đoạn lớn:
- Nhận thức cảm tính (cảm giác và tri giác).
- Nhận thức lý tính (tư duy và tưởng tượng).
1.2.1. Nhận thức cảm tính (cảm giác và tri giác)
Là một quá trình tâm lý, nó là sự phản ánh những thuộc tính bên ngoài của
sự vật và hiện tượng thông qua sự tri giác của các giác quan.
- Cảm giác là hình thức khởi đầu trong sự phát triển của hoạt động nhận
thức, nó chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng.
- Tri giác phản ánh sự vật hiện tượng một cách trọn vẹn và theo cấu trúc nhất định.
1.2.2. Nhận thức lý tính (tư duy và tưởng tượng)
- Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những điều chưa từng có

1.3.2. Tầm quan trọng của phát triển tư duy
Lý luận dạy học hiện đại đặc biệt chú ý đến sự phát triển tư duy cho HS
thông qua việc điều khiển tối ưu quá trình dạy học, còn các thao tác tư duy cơ bản là
công cụ của nhận thức, đáng tiếc rằng điều này cho đến nay vẫn chưa được thực
hiện rộng rãi và hiệu quả. Vẫn biết rằng sự tích luỹ kiến thức trong quá trình dạy
học đóng vai trò không nhỏ, song không phải quyết định hoàn toàn. Con người có
thể quên đi nhiều sự việc cụ thể mà dựa vào đó những nét tính cách của anh ta được
hoàn thiện. Nhưng nếu những tính cách này đạt đến mức cao thì con người có thể
giải quyết được mọi vấn đề phức tạp nhất, điều đó có nghĩa là anh ta đã đạt đến một
trình độ tư duy cao. "Giáo dục - đó là cái được giữ lại khi mà tất cả những điều học
thuộc đã quên đi” nhà vật lí học nổi tiếng N. Isue đã nói như vậy. Câu này khẳng
định vai trò quan trọng của việc phát triển tư duy cũng như mối quan hệ mật thiết
của nó với giảng dạy.
1.3.3. Những đặc điểm của tư duy
Quá trình tư duy nhất thiết phải sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện, giữa tư
duy và ngôn ngữ có mối quan hệ không thể chia cắt, tư duy và ngôn ngữ phát triển
trong sự thống nhất với nhau. Vì vậy, tư duy là sự phản ánh nhờ vào ngôn ngữ. Các
khái niệm và những yếu tố của tư duy.
- Tư duy phản ánh khái quát : Tư duy phản ánh hiện tượng khách quan,


11
những nguyên tắc hay nguyên lí chung, những khái niệm hay vật tiêu biểu. Phản
ánh khái quát là phản ánh tính phổ biến của đối tượng. Vì thế, những đối tượng
riêng lẻ đều được xem như một sự thể hiện cụ thể của quy luật chung nào đó. Nhờ
đặc điểm này, quá trình tư duy bổ sung cho nhận thức cảm tính và giúp con người
nhận thức hiện thực một cách toàn diện hơn.
- Tư duy phản ánh gián tiếp: Tư duy giúp ta hiểu biết những gì không tác
động trực tiếp, không cảm giác và quan sát được, mang lại những nhận thức thông
qua các dấu hiệu gián tiếp. Tư duy cho ta khả năng hiểu biết những đặc điểm bên

- Tổng hợp: là hoạt động nhận thức phản ánh của tư duy biểu hiện trong việc
xác lập tính chất thống nhất của các phẩm chất và thuộc tính của các yếu tố trong
một sự vật nguyên vẹn có thể có được trong việc xác định phương hướng thống
nhất và xác định các mối quan hệ giữa các yếu tố của sự vật nguyên vẹn đó, trong
việc liên kết và liên hệ giữa chúng và vì vậy sẽ thu được một sự vật nguyên vẹn
mới.
Kết quả của quá trình nhận thức là hoạt động cân đối và mật thiết giữa phân
tích và tổng hợp. Sự phân tích sâu sắc, phong phú là điều kiện quan trọng để tổng
hợp chính xác, trọn vẹn, ngược lại tổng hợp sơ bộ tạo tiền đề quan trọng cho sự
phân tích.
- So sánh: là thiết lập sự giống nhau và khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng
và những khái niệm phản ánh chúng. Muốn thiết lập được sự giống nhau và khác
nhau, thì so sánh phải kèm theo sự phân tích và tổng hợp. Như vậy, so sánh không
những phân biệt và chính xác hóa khái niệm mà còn giúp hệ thống hóa chúng lại.
- Trừu tượng hóa: là quá trình dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc
tính, những liên hệ, quan hệ thứ yếu, không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố cần
thiết cho tư duy.
- Khái quát hóa: là tìm ra cái chung và bản chất trong số những dấu hiệu,
tính chất và mối liên hệ giữa chúng.
1.3.6. Các hình thức cơ bản của tư duy
Tư duy là thuộc tính đặc biệt của bộ não con người. Nó phản ánh những
thuộc tính bản chất, những mối liên hệ bên trong có tính quy luật của thế giới vật
chất dưới dạng các hình ảnh lý tưởng mà trước đó người ta chưa biết. Tư duy có các
hình thức cơ bản như:
- Khái niệm: là hình thức của tư duy phản ánh những dấu hiệu bản chất riêng
biệt của sự vật, hiện tượng. Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong quá trình tư
duy, được xây dựng trên cơ sở những thao tác tư duy, nó là điểm tựa cho tư duy


13


Phủ định
Giải quyết vấn đề


14
1.3.8. Đánh giá khả năng phát triển tư duy hóa học của HS
Việc phát triển tư duy hóa học cho HS là giúp HS thông hiểu kiến thức một
cách sâu sắc, không máy móc, biết cách vận dụng để giải quyết các BTHH, giải
thích các hiện tượng quan sát được trong thực hành. Qua đó kiến thức mà các em
thu nhận được trở nên vững chắc và sinh động.
Tư duy hóa học càng phát triển thì HS càng có nhiều khả năng lĩnh hội tri
thức nhanh và sâu sắc hơn, khả năng vận dụng tri thức trở nên linh hoạt, có hiệu quả
hơn. Các kỹ năng hóa học cũng được hình thành và phát triển nhanh chóng hơn.
Như vậy sự phát triển tư duy hóa học của HS diễn ra trong quá trình tiếp thu
và vận dụng tri thức, khi tư duy phát triển sẽ tạo ra kỹ năng và thói quen làm việc có
suy nghĩ, có phương pháp; chuẩn bị tiềm lực cho hoạt động sáng tạo sau này của
các em. Sự phát triển tư duy hóa học của HS có các dấu hiệu sau:
- Có khả năng tự lực chuyển các tri thức và kỹ năng sang một tình huống
mới. Trong quá trình học tập, HS đều phải giải quyết những vấn đề đòi hỏi phải liên
tưởng đến những kiến thức đã học trước đó. Nếu HS độc lập chuyển tải tri thức vào
tình huống mới thì chứng tỏ đã có biểu hiện tư duy phát triển.
- Tái hiện nhanh chóng kiến thức, các mối quan hệ cần thiết để giải một bài
toán nào đó. Thiết lập nhanh chóng các mối quan hệ bản chất giữa các sự vật và
hiện tượng.
- Có khả năng phát hiện cái chung của các hiện tượng khác nhau, sự khác
nhau giữa các hiện tượng tương tự.
- Có năng lực áp dụng kiến thức vào thực tế. Đây là kết quả tổng hợp của sự
phát triển tư duy để có thể giải quyết tốt bài toán thực tế, đòi hỏi HS phải có sự định
hướng tốt, biết phân tích, suy đoán và vận dụng các thao tác tư duy để tìm cách áp

HS tính kiên nhẫn, tính trung thực trong lao động, học tập, tính độc lập sáng tạo khi
sử dụng và vận dụng trong các vấn đề học tập. Mặt khác, việc tự mình giải các
BTHH một cách thường xuyên cũng góp phần rèn luyện cho HS tinh thần kỉ luật,
tính tự kiềm chế, cách suy nghĩ, rèn luyện cho HS tính chính xác khoa học trong
học tập.
BTHH giúp cho việc hoàn thiện chất lượng dạy học, củng cố các kiến thức
thu được, hình thành kĩ năng và chuyển vào tình huống mới, thiết lập mối liên hệ
liên môn, việc giải BTHH tạo điều kiện tiếp thu kĩ năng và kĩ xảo thực hành của HS
(thí nghiệm, tính toán). Bài tập là phương tiện để phát triển tư duy của HS. Bài tập
còn cung cấp cho HS những số liệu mới về phát minh, về năng suất lao động, về sản
lượng mà ngành sản xuất hóa học đạt được giúp HS hòa nhịp với sự phát triển khoa


16
học kĩ thuật thời đại mình đang sống.
1.4.2. Phân loại BTHH
Trên cơ sở nội dung, người ta thường chia bài tập hóa học thành các loại:
- Bài tập định lượng (bài toán hóa học).
- Bài tập định tính.
- Bài tập thực nghiệm (bài tập có nội dung thí nghiệm).
- Bài tập tổng hợp (có nội dung chứa cả hai hoặc ba loại trên).
- Bài tập trắc nghiệm.
1.4.3. Thực tiễn của việc sử dụng bài tập hóa học hiện nay
1.4.3.1. Tình hình học tập hóa học của HS
Nhìn chung, ở hầu hết trường phổ thông, tỉ lệ HS học tốt môn hóa học còn
thấp. Qua quá trình tìm hiểu và điều tra thực tế, chúng tôi nhận thấy rằng chất lượng
dạy học hóa học ở các trường phổ thông chưa cao là do một số nguyên nhân cơ bản
sau:
a. Cơ sở vật chất cho việc dạy học hóa học
Hóa học là bộ môn khoa học thực nghiệm nên việc sử dụng thí nghiệm trong

cao.
Tuy nhiên, trong thực tế phương pháp dạy học truyền thống – phương pháp
thuyết trình – vẫn được GV sử dụng chủ yếu. Một số GV còn nhầm lẫn giữa
phương pháp dạy học nêu vấn đề với phương pháp đàm thoại gợi mở. Chẳng hạn,
bắt đầu một nội dung, một mục hay một bài học bằng một câu hỏi, sau đó GV tổ
chức cho HS tìm kiếm câu trả lời và kết luận nhưng câu hỏi mà GV đặt ra không
chứa đựng mâu thuẫn nhận thức. Một vấn đề cần đề cập đến trong phương pháp dạy
học của GV là do hạn chế về thời gian nên ngay sau khi đặt câu hỏi, HS chưa kịp
suy nghĩ thì GV đã nôn nóng đưa ra câu trả lời. Đây thực sự là vấn đề nhức nhối
trong phương pháp dạy học của GV. Sự nhìn nhận chưa thấu đáo của GV về các
phương pháp dạy học đã vô tình đưa HS vào thế bị động trong quá trình nhận thức,
lâu dần thành thói quen: lười suy nghĩ, ỷ lại, trông chờ vào người khác và tất nhiên
không khuyến khích được khả năng tư duy, sáng tạo của HS.
* Giờ ôn tập – luyện tập đa số chưa đạt yêu cầu. Chủ yếu nhắc lại kiến thức
cũ và làm một số bài tập vận dụng, chưa chú ý rèn cho HS cách suy luận logic, khả
năng tư duy.
* GV, đặc biệt là các GV ở Trung học cơ sở chưa giúp cho HS hiểu và nắm
chắc các khái niệm hóa học. Vì vậy, đa số các HS gặp nhiều khó khăn trong tiếp
nhận tri thức ở bậc cao hơn.


18
* Một số GV dạy như tóm tắt nội dung trong sách giáo khoa mà không chú ý
rèn luyện cho HS khả năng suy luận.
* Ít GV sử dụng thí nghiệm trong quá trình dạy học, nếu có thì phần lớn là
thí nghiệm minh họa, biểu diễn. HS rất ít, thậm chí không được tự làm thí nghiệm.
Nếu HS được tự làm thí nghiệm theo hướng nghiên cứu sẽ kích thích HS suy nghĩ,
động não. Đứng trước hiện tượng phong phú của thí nghiệm hóa học, trong đầu HS
sẽ xuất hiện các tình huống có vấn đề, kiến thức sẽ được hình thành trong quá trình
giải quyết vấn đề. Như vậy, trong dạy học hóa học, nếu sử dụng thí nghiệm một

- Đa dạng hóa các loại hình bài tập như: Bài tập bằng hình vẽ, bài tập vẽ đồ
thị, sơ đồ, lắp dụng cụ thí nghiệm…
- Xây dựng những bài tập có nội dung hóa học phong phú, sâu sắc, phần tính
toán đơn giản, nhẹ nhàng.
- Xây dựng và tăng cường sử dụng bài tập thực nghiệm định lượng.


20

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Sự phát triển xã hội và sự đổi mới đất nước đang đòi hỏi cấp bách phải nâng
cao chất lượng giáo dục để đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực có trình
độ cao. Cùng với những thay đổi về nội dung, cần có những đổi mới căn bản về
phương pháp dạy học. Phát huy tính tích cực học tập của học sinh được coi là
nguyên tắc nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả của quá trình dạy học. Việc giải bài
tập hóa học ở trường phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc dạy học hóa
học. Tính tích cực của bài tập hóa học được nâng cao hơn khi bài tập hóa học được
sử dụng như là nguồn kiến thức để học sinh tìm tòi chứ không phải để tái hiện kiến
thức.
Như vậy việc sử dụng bài tập hóa học hợp lí, có hiệu quả của giáo viên trong
các khâu của quá trình dạy học thì sẽ phát triển được tư duy tích cực, độc lập sáng
tạo của học sinh, nâng cao chất lượng dạy học hóa học.


Trích đoạn Xõy dựng tiến trỡnh luận giải để rốn năng lực suy luận logic Phương phỏp bảo toàn khối lượng Sử dụng bài tập để rốn năng lực lao động sỏng tạo, luụn tỡm con đường đi đến kết quả là con đường ngắn nhất.
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status