Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu dứa của Tổng công ty Rau quả Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ - Pdf 32

A.LỜI MỞ ĐẦU
Theo văn kiện đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam thì “tổng kim ngạch
xuất khẩu 5 năm (kể từ đại hội VIII) đạt trên 51,6 tỷ, tăng bình quân hàng năm trên
21%, gấp 3 lần mức tăng GDP”, cho thấy hoạt động xuất khẩu đóng vài trò quan
trọng trong nền kinh tế nước nhà. Hoạt động xuất khẩu ngày càng được đẩy mạnh
nhằm mục đích thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài để làm giàu cho đất nước. Tất
cả các ngành đang chuyển từ xuất khẩu sản phẩm thô sơ sang sản phẩm đã được
chế biến một trong những ngành đó là sản xuất và chế biến Rau quả xuất khẩu với
kim ngạch xuất khẩu đạt năm 2002 là 25,8 triệu USD (của riêng Tổng công ty rau
quả Việt Nam).
Mặt khác, cùng với sự kiện tháng 7/2002, Việt Nam và Hoa Kỳ đã được ký
kết hiệp định thương mại song phương thúc đẩy việc trao đổi hàng hoá lưu thông tự
do giữa 2 nước. Đây là cơ hội cho các Tổng công ty và doanh nghiệp trong nước
tiếp cận được với thị trường Hoa Kỳ rộng lớn. Đồng thời cũng là thách thức lớn
đối với việc hội nhập quốc tế của nền kinh tế Việt Nam mà phương châm là hội
nhập chứ không hoà tan. Việc xâm nhập vào thị trường khó tính như thị trường Hoa
Kỳ cần phải được xem xét kỹ càng và có chiến lược đúng đắn để có thể cạnh tranh
với các nước trên thế giới cũng như các doanh nghiệp trong nước của Mỹ.
Tổng công ty Rau quả Việt Nam cũng nhận định rằng thị trường Hoa Kỳ là
một thị trường tiềm năng nhất là đối với sản phẩm dứa. Năm 2000 xuất khẩu dứa
của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ là 307 tấn, quý I năm 2002 là 1.380 tấn cho
thấy nhu cầu về dứa của Hoa Kỳ ngày càng tăng. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp một
số khó khăn do các chính sách phi thuế quan của Hoa Kỳ cũng như do phong cách
làm việc của Tổng công ty chưa phù hợp.
Với những vấn đề mang tính bức xúc và cấp thiết trên tôi đã quyết định chọn
đề tài “Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu dứa của Tổng công ty Rau quả
SV: Lê Quốc Thắng
1
Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ”, nhằm mục đích góp phần sức nhỏ bé của
mình vào việc hoàn thiện hoạt động xuất khẩu và nâng cao sản lượng dứa xuất
khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ.

phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định và từng bước nâng cao đời sống kinh
tế của nhân dân.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có
thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài
mà cả chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.
Theo điều 52 NĐ52/1998 của Chính phủ: hoạt động xuất khẩu hàng hoá là
hoạt động bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài
theo các hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và
chuyển khẩu hàng hoá.
Như vậy, cả hai khái niệm trên đều cho rằng xuất khẩu là một hoạt động kinh
doanh nhưng phạm vi kinh doanh vượt khỏi biên giới quốc gia hay là hoạt động
SV: Lê Quốc Thắng
3
buôn bán với nước ngoài. Thông qua hoạt động xuất khẩu có thể đem lại những
thuận lợi to lớn cho nền sản xuất trong nước.
1.2. Các hình thức xuất khẩu hàng hoá
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và xu hướng hội nhập diễn ra
trên toàn cầu mà các hình thức kinh doanh XNK ngày càng được bổ sung, phát
triển. Theo quy định của Nhà nước ta thì lĩnh vực kinh doanh XNK bao gồm những
lĩnh vực sau:
- Một là xuất khẩu hàng hoá (kể cả thiết bị toàn bộ và dịch vụ) với nước
ngoài và khu chế xuất, thông qua thương mại, hợp tác kinh tế – khoa học – kỹ
thuật, đầu tư (theo luật đầu tư) và viện trợ.
Như vậy, hoạt động kinh doanh xuất khẩu bao gồm cả việc xuất bán hàng
hoá cho khu chế xuất đặt trên lãnh thổ Việt Nam.
- Hai là tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, quá cảnh. Trong đó, tạm nhập – tái
xuất được hiểu là việc mua hàng của một nước để bán cho nước khác trên thế giới
theo cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá vào
Việt Nam rồi làm thủ tục xuất khẩu thông qua gia công, chế biến. Còn chuyển khẩu
là việc mua hàng của nước này bán cho nước khác nhưng không làm thủ tục nhập

nói cách khác, doanh nghiệp phải xác định được những vấn đề sau:
- Mặt hàng nào thị trường cần? Quy cách, mẫu mã, chủng loại như như thế
nào?
- Tập quán, thị hiếu của người tiêu dùng.
- Mặt hàng đang ở thời kỳ nào trong chu kỳ sống của sản phẩm.
- Nguồn hàng của doanh nghiệp.
SV: Lê Quốc Thắng
5
- Nghiên cứu tỷ suất ngoại tệ để lựa chọn mặt hàng kinh doanh (tỷ suất ngoại
tệ hàng xuất khẩu biểu thị lượng nội tệ chi để thu về một đơn vị ngoại tệ, nếu tỷ
suất ngoại tệ thấp hơn tỷ giá hối đoái thì doanh nghiệp xuất khẩu có hiệu quả).
Trong quá trình nghiên cứu thị trường, cần xác định nhu cầu thật của khách
hàng, kể cả nhu cầu dự trữ, xu hướng biến động nhu cầu từng thời điểm của các
vùng, các khu vực có nhu cầu lớn và đặc biệt của nhu cầu cho từng khu vực, từng
lĩnh vực tiêu dùng. Đồng thời, phải nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao
gồm việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng sản xuất hàng hoá thay thế, khả
năng lựa chọn mua bán, các đối thủ cạnh tranh… đặc biệt là điều kiện chính trị, luật
pháp, tập quán, chính sách thương mại, điều kiện về tiền tệ và tín dụng của từng
quốc gia, từng khu vực để có thể hoà nhập thị trường nhanh và có hiệu quả.
Sau khi nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp có thể lựa chọn thị trường
truyền thống hoặc thị trường mới. Đối với thị trường truyền thống, điều thuận lợi
đối với doanh nghiệp là đã quen nhưng muốn duy trì thì doanh nghiệp phải không
ngừng cải tiến chất lượng, mẫu mã để nâng cao uy tín và tìm cách đưa hàng hoá
mới xâm nhập thị trường mới.
Trong kinh doanh XNK, các đối tác kinh doanh có thể là một hay nhiều
khách hàng và các đối tác này có ảnh hưởn trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trong quá trình lựa chọn đối tác, không nên căn cứ vài lời quảng cáo,
khuyếch trương, tự giới thiêu mà cần phải tìm hiểu, lựa chọn đối tác kinh doanh có
các điều kiện sau:

Việc lập phương án kinh doanh bao gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường, phác hoạ bức tranh tổng thể về hoạt động
kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
SV: Lê Quốc Thắng
7
- Đề ra mục tiêu cụ thể như: bán hàng cho ai, giá cả, khối lượng bao nhiêu…
để có thể đạt lợi nhuận cao nhất.
- Đề ra biện pháp thực hiện biện pháp để đạt được mục tiêu bao gồm: đầu tư
và sản xuất, cải tiến bao bì, quảng cáo…
- Đánh giá hiệu quả kinhtế của phương án thông qua các chỉ tiêu tỷ suất
ngoạitệ, tỷ suất doanh lợi, thời điểm hoà vốn, thời gian hoà vốn,…
 Nghiên cứu về nguồn hàng xuất khẩu
Muốn khai thác và phát triển nguồn hàng, các đơn vị xuất khẩu phải nghiên
cứu nguồn hàng, qua đó ta có thể nắm bắt được khả năng cung cấp hàng của các
nhà cung cấp để khai thác và huy động cho xuất khẩu.
Nghiên cứu nguồn hàng nhằm xác định mặt hàng dự kiến kinh doanh xuất
khẩu có phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của thị trường nước ngoài hay không?
Có thuộc hạn ngạch xuất khẩu hay không? Có được nước ngoài khuyến khích xuất
khẩu không?
Có hai phương pháp nghiên cứu nguồn hàng:
- Lấy mặt hàng làm đơn vị nghiên cứu: theo phương pháp này, người ta
nghiên cứu tình hình khả năng sản xuất và tiêu thụ của từng mặt hàng và thường
làm phiếu theo dõi đối với từng mặt hàng. Dùng phương pháp này, ta có thể biết
được tình hình chung về khả năng sản xuất và nhu cầu xuất khẩu của từng mặt
hàng.
- Lấy cơ sở sản xuất làm đơn vị nghiên cứu: theo phương pháp này người ta
theo dõi năng lực sản xuất vầ khả năng đáp ứng sản phẩm của từng cơ sở sản xuất
qua các chỉ tiêu: số lượng, chất lượng hàng cung cấp, giá thành.
Sau khi nghiên cứu nguồn hàng, các doanh nghiệp tổ chức quá trình thu mua

SV: Lê Quốc Thắng
9
Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu đã ký kết, đơn vị kinh doanh xuất khẩu
phải thực hiện hợp đồng mình đã ký. Việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu
tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Xin giấy phép xuất khẩu
Bước 2: Tiến hành kiểm tra nội dung
Bước 3: Chuẩn bị hàng hoá để giao. Bên xuất khẩu phải chuẩn bị hàng hoá
căn cứ theo đúng hợp đồng về số lượng, quy cách, ký mã hiệu. Bao bì phải phù hợp
với hàng hoá đảm bảo chuyên chở tới đích.
Bước 4: Kiểm tra hàng hoá
Bước 5: Nếu doanh nghiệp xuất khẩu bán theo điều kiện thì phải tiến hành
thuê tầu và mua bảo hiểm cho hàng hoá
Bước 6: Làm thủ tục hải quan
Bước 7: Giao hàng lên tầu
Bước 8: Làm thủ tục thanh toán
Bước9: Giải quyết khiếu nại nếu có
 Thanh toán trong kinh doanh xuất khẩu:
Thanh toán là một khâu quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá.
Thanh toán là một bước đảm bảo cho người xuất khẩu thu được tiền về và người
nhập khẩu nhân được hàng hoá. Có thể hiểu thanh toán trong kinh doanh thương
mại quốc tế là việc chi trả những khoản tiền tệ có liên quan đến nhập khẩu hàng
hoá đã được thoả thuận trong hợp đồng kinh tế
Trong quá trình thanh toán phải xem xét những vấn đề sau:
- Tỷ giá hối đoái
- Dòng tiền thanh toán
- Phương thức thanh toán
- Địa điểm thanh toán
- Thời hạn thanh toán
SV: Lê Quốc Thắng

sự canh tranh của các công ty thuộc nhiều nước khác nhau. Thông qua xuất khẩu có
thể tự khẳng định mình và học hỏi được nhiều kinh nghiệm và trình độ quốc tế,
đặc biệt là trình độ kỹ thuật và công nghệ của các nước phát triển. Đồng thời đòi
hỏi phải phấn đấu hạ giá thành các sản phẩm để có thể cạnh tranh được với giá cả
quốc tế.
- Xuất khẩu tạo điều kiện vật chất không những cho hoạt động ngoại thương
mà còn cho việc tạo lập các mặt cân đối khác của nền kinh tế quốc dân như thanh
toán trả nợ, ổn định sức mua của đồng tiền trong nước,… Đồng thời thông qua xuất
khẩu có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện một chính sách ngoại giao
chủ động và tích cực.
Nói tóm lại, xuất khẩu không chỉ là hình thức trao đổi hàng hoá tiền tệ mà
còn tác động đến nền kinh tế quốc dân và sự hội nhập của đất nước vào thị trường
quốc tế. Do đó chúng ta cần phải có chiến lược rõ ràng về xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu có vai trò hết sức quan trọng cho việc bảo đảm sức chủ
động trong hoạt động ngoại thương của nước ta, đặc biệt trong giai đoạn thực hiện
chính sách mở cửa, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước.
Những phân tích sâu về vai trò của xuất khẩu sẽ cho ta thấy rõ hơn về tác động của
xuất khẩu tới nền kinh tế quốc dân Việt Nam.
 Đối với việc phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo
hướng CNH-HĐH.
Để có thể xuất khẩu, điều đầu tiên là phải lựa chọn mặt hàng, tổ chức lại sản
xuất, áp dụng công nghệ thích hợp, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng
và hạ giá thành sản phẩm, đưa nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao.
SV: Lê Quốc Thắng
12
Kể từ sau năm 1985, nước ta thực hiện chính sách mở cửa theo tinh thần
nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7, quy mô xuất khẩu tăng
trung bình 20%/năm. chính điều này đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế trong
nước ngày càng cao. Trong 5 năm 1991-1995, đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình
quân 8,2%/năm. Nhờ có việc mở rộng xuất khẩu mà nhiều ngành nghề truyền

- Bản thân việc mở rộng xuất khẩu đòi hỏi phải áp dụng nhanh chóng và đổi
mới thường xuyên công nghệ để nâng cao chất lượng hàng hoá.
- Thông qua xuất khẩu chúng ta có thể thu được ngoại tệ, tạo ra khả năng
nhập khẩu các công nghệ thích hợp và công nghệ tiên tiến.
- Việc mở rộng xuất khẩu đòi hỏi và cho phép mở rộng đầu tư nước ngoài,
thông qua đó mà việc đổi mới công nghệ diễn diễn ra với tốc độ cao hơn.
Đối với hoạt động nhập khẩu
Xuất khẩu và nhập khẩu là hai mặt của hoạt động ngoại thương của một quốc
gia. Giữa chúng có một mối quan hệ chặt chẽ, làm tiền đề cho nhau và cùng thúc
đẩy nhau phát triển. Tuy nhiên, việc nhận thức về mối quan hệ này phải trải qua
một quá trình lau dài, gắn với những đòi hỏi của thực tiễn khách quan.
Trong thời kỳ của chủ nghĩa trọng thương, người ta nhấn mạnh vai trò của
xuất khẩu và xem nhẹ vai trò của xuất khẩu. Vì vậy trong thời kỳ này thường chủ
trương tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu sao cho đạt tới thặng dư tối đa
giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Thời kỳ cuối của công nghiệp trọng thương, người ta
đã nhận thức rõ hơn một phần mối quan hệ biện chứng giữa xuất khẩu và nhập
khẩu, tức là tăng cường nhập khẩu để phục vụ cho việc mở rộng xuất khẩu.
Trong điều kiện thế giới ngày nay, trình độ mở cửa của mỗi quốc gia thị
trường thế giới ngày càng cao, sự tham gia vào phân công lao động quốc tế phát
SV: Lê Quốc Thắng
14
triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu đòi hỏi phải nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ
giữa xuất khẩu và nhập khẩu: xuất khẩu để phục vụ nhập khẩu, đồng thời mở rộng
nhập khẩu để tăng cường xuất khẩu. Trong trường hợp thứ nhất, xuất khẩu đóng
vai trò chủ động có ý nghĩa là đã xuất khẩu được nhiều thì việc mở rộng nhập khẩu
sẽ dễ dàng. Tuy nhiên, nhìn về lâu dài, khả năng mở rộng xuất khẩu sẽ bị hạn chế
nếu việc nhập khẩu tách rời với việc xuất khẩu, cụ thể là nếu nhập khẩu chỉ phục
vụ tiêu dùng mà không phục vụ sản xuất. Trong trường hợp 2, nhập khẩu đóng vai
trò chủ động nhưng nhìn tổng thể nền kinh tế, việc nhập khẩu đơn thuần cho tiêu
dùng của dân cư sẽ dẫn đến khó khăn cho giai đoạn tiếp theo. Bởi vậy, cơ cấu nhập

Với thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới 30.000USD/người, tổng
chi dùng cá nhân là trên 300 tỷ USD, hàng năm thị trường tiêu thụ được bổ sung
khoảng vài ba triệu người làm cho quy mô thị trường không ngừng mở rộng.
Nước Mỹ có sức mạnh kinh tế to lớn và có ảnh hưởng sâu rộng về chính trị
trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, Mỹ và Việt Nam đã cắt đứt mối quan hệ suốt gần
20 năm sau chiến tranh. Buôn bán giữa Việt Nam và Mỹ chỉ bắt đầu trở lại từ năm
1992, một phần qua con đường viện trợ nhân đạo phi chính phủ, một phần buôn
bán trực tiếp. Dù vậy kim ngạch còn rất nhỏ và chủ yếu là Việt Nam nhập khẩu của
Mỹ. Sang năm 1994, quan hệ thương mại Việt-Mỹ có bước cải thiện hơn. Đặc biệt
là vào tháng 7/2000 hai nước đã ký hiệp định thương mại song phương đẩy mạnh
XNK hàng hoá với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ năm 2000
đạt733,14 triệu USD, tăng hỏn 15 lần so với năm 1994, và tổng giá trị kim ngạch
xuất nhập khẩu với Mỹ đạt khoảng 1.2 tỹ USD. Đặc biệt trong thị trường hoa quả
kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ của Tổng công ty rau quả Việt Nam năm 2002 tăng
gấp 3 lần so với năm 2001. Và thị trường dứa của Mỹ ngày càng tăng. Điều này thể
hiện ở những khía cạnh sau:
SV: Lê Quốc Thắng
16
- Dung lượng thị trường:
Việc ước lượng dung lượng thị trường hiện tại và tiềm năng của thị trường
này trong tương lai có một ý ngĩa quan trọng trong việc đề ra các chiến lược chỉ
đạo.
Theo thống kê năm 2000 nước Mỹ sản xuất dứa khoảng 440.000 tấn dứa
trong đó chỉ dành 900 tấn để xuất khoản còn lại là tiêu dùng nội địa nhưng nước
Mỹ vẫn phải nhập khấu với só lượng lớn 293,657 tấn. Điều này cho thấy quy mô
thị trường năng suất lớn và việc bỏ qua nó là một điều đáng tiếc. Cần có các chính
sách cần thiết để khai thác thị trường.
- Khách hàng Hoa Kỳ:
Người Mỹ coi dứa là loại trái cây đặc sản và rất ưa thích sử dụng dứa trong
vòng 10 năm qua. Kể từ 1990 đến nay, mức tiêu dùng trung bình hàng năm của

ta cần phải theo dõi chặt chẽ để có những biện pháp thích nghi một cách tốt hơn.
Người tiêu dùng trên thị trường Mỹ có thể ở mọi lứa tuổi, trẻ em thích những đồ
hộp xinh xắn có thể cho vào cặp sách, người lớn là những đồ hộp dứa dạng ống dễ
cầm và có cảm tưởng như uống bằng cốc, các phụ nữ thường chọn những hộp dứa
to và do tính ưa bày biện, họ thường là những người tiêu thụ dứa thanh, dứa
khoang, dứa rẻ quạt nhiều nhất.
Người Mỹ là những người tiêu dùng không thích sự đơn điệu. Cho dù họ rất
thích dứa, đôi khi họ cũng muốn thay đổi hương vị. Mặt khác, mức độ dao động về
sự lựa chọn của người mua đối với mặt hàng dứa cũng tương đối cao. Vì vậy cách
tốt nhất để họ vẫn trung thành với mặt hàng là chế biến dứa kết hợp với nhiều
giống quả khác.
SV: Lê Quốc Thắng
18
Sự quan tâm đến môi trường dẫn đến thái độ bài trừ của nhiều người Mỹ với
những đồ hộp làm từ nguyên liệu gây ô nhiễm. Bắt buộc Tổng công ty khi xuất
khẩu dứa sang thị trường này cần nhấn mạnh về độ bớt ô nhiễm của chất liệu sẽ tạo
ra nhiều cảm tình của người tiêu dùng. Cũng như vậy, yêu cầu vệ sinh an toàn sẽ
dẫn đến sự thận trọng trong chọn lựa của người Mỹ. Họ sẽ tránh những sản phẩm
xứ lạ, nhất là khi họ gặp phải vấn đề chất lượng trong những lần mua thử. Điều này
buộc nhà sản xuất phải thận trọng và đòi hỏi trong quản lý chất lượng.
- Chính sách thương mại của chính phủ Hoa Kỳ
Về hệ thống luật pháp của Mỹ, Mỹ là một trong số ít nước trên thế giới duy
trì hệ thống luật pháp bất thành văn (common law). Gọi là luật bất thành văn là vì
các quy phạm luật không được soạn thảo và tập hợp một cách hệ thống trong luật
thành văn (civil law), mà hình thành dần dần thông qua các quyết định và bản án
của toà trong thực tiễn xét xử (gọi là án lệ). Tuy nhiên, toàn bộ hoạt động thương
mại của Mỹ là do một hệ thống tổng hợp các đạo luật cơ bản, các quy chế, thể lệ
điều tiết. Vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp phải nắm được các đạo luật chính
yếu này trong đó đi sâu tìm hiểu những luật lệ điều tiết nhập khẩu luật thuế và hải
quan là những luật trực tiếp liên quan đến hoạt động xuất khẩu của mình.

Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP là hệ thống về thuế mà Mỹ dành cho
các nước đang phát triển, là chế độ ưu đãi đơn phương không đòi hỏi điều kiện có
đi có lại. Còn ưu đãi tối huệ quốc MFN là chế độ ưu đãi với điều kiện có đi có lại
giữa các nước thành viên của hiệp định GATT. Theo tinh thần đó, hai nước sẽ dành
cho nhau những ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan không thấp hơn những ưu đãi
mà mình dành cho một nước thứ ba. Việt Nam là một nước vừa được hưởng chế độ
ưu đãi tối huệ quốc MFN thông qua hiệp định thương mại Việt-Mỹ. Với lợi thế này
SV: Lê Quốc Thắng
20
hàng Việt Nam ngày càng có thế cạnh tranh với các mặt hàng của các nước khác
trong thị trường Mỹ.
Ngoài ra thủ tục nhập hàng vào Mỹ cũng là một vấn đề cần quan tâm với
doanh nghiệp xuất khẩu. Cũng như ở Việt Nam, hàng nhập khẩu phải qua hải quan
để làm thủ tục nộp thuế và giao hàng, gồm các bước sau: xuất trình chứng từ, phân
loại lô hàng, xác định giá tính thuế, mức thuế, kiểm tra, hoàn tất thủ tục. Trong quá
trình này hải quan đặc biệt kiểm tra chặt chẽ về mark, mã, nhãn hiệu, vệ sinh an
toàn, đặc biệt đối với hàng nông sản. Ví dụ, các mặt hàng không ghi tên nước xuất
xứ bị phạt 10% giá tính thuế.
Với một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và khắt khe cũng đã tạo ra một nước
Mỹ có nền kinh tế phát triển nhất thế giới và nắm hầu hết các huyết mạch của hầu
như toàn Bắc Mỹ và một phần của thế giới.
- Nguồn cung cấp
Là một thị trường tiêu thụ dứa rộng lớn, Mỹ đã thu hút hầu hết lượng dứa
được sản xuất từ các nước trên thế giới. Với Thái Lan thì Mỹ là một nước nhập
khẩu dứa lớn nhất: lượng nhập khẩu dứa tăng theo các năm với rất nhiều quốc gia.
Tiêu dùng dứa tươi năm 1999 ước tính chiếm khoảng 20% tổng lượng tiêu dùng
dứa của Mỹ. Mặc dù mức tiêu dùng dứa tươi và đông lạnh cũng đạt mức cao nhất
trong vòng 20 năm trở lại đây đạt mức 3,1pounds/người (khoảng 1,4kg/người).
Thái Lan đứng đầu thế giới về sản lượng xuất khẩu dứa với 2,287 triệu tấn
dứa quả, năm 2000 và cũng là nước xuất khẩu dứa lớn nhất của thị trường Mỹ. Sau

2.1. Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu dứa vào thị trường Hoa Kỳ
Hiện nay, với dân số khoảng gần 280 triệu người, tổng sản phẩm quốc nội
lên tới trên 9000 tỷ USD/năm, trong đó 80% được dành cho tiêu dùng, Mỹ là nước
có nền kinh tế mạnh nhất, là thị trường có sức mua lớn nhất thế giới. Tuy nhiên,
hàng hoá Việt Nam vẫn chưa có được vị thế xứng đáng trên thị trường này. ngay
sau khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, xuất
khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ đã gia tăng một cách nhanh chóng. Đặc biệt
là hàng nông sản, hoa quả. Riêng đối với mặt hàng hoa quả kim ngạch xuất khẩu
sang Mỹ năm 2002 tăng gấp 3 lần năm 2001 (số liệu của Tổng công ty Rau quả
Việt Nam). Cụ thể 2000 là 1.906.000 USD, năm 2001 đạt 532.500 USD, năm 2002
đạt 1.340.000 USD. Việc ký kết hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã đem lại cho
chúng ta những cơ hội to lớn để chiếm lĩnh thị trường này. Với mức lãi suất từ hàng
chục % xuống hàng đơn vị % làm cho giá cả của hàng hoá Việt Nam thấp hơn so
với các nước khác khiến cho sản lượng bán của chúng ta tăng lên.
Ngoài ra nhà nước còn hỗ trợ cho ngành dứa rất nhiều về nguồn giống như
hỗ trợ giống cứ 1 ha thì được 50.000 chồi hoặc 1 chồi = 600 đồng, hoặc là khuyến
khích xuất khẩu bằng cách cứ 1 USD thì được cộng thêm 500 đồng đã tạo ra 1
nguồn cung cấp lớn cho nước Mỹ và luôn đáp ứng được nhu cầu to lớn của thị
trường này.
Hiệp định thương mại Việt-Mỹ cũng tác động tích cực trong việc khuyến
khích các nhà đầu tư từ các quốc gia và trong khu vực, kể cả các nhà đầu tư Mỹ,
gia tăng đầu tư vào Việt Nam để sản xuất hàng hoá và sau đó xuất khẩu sang thị
trường Mỹ. Kinh nghịêm của Trung Quốc cho thấy đầu tư nước ngoài đóng vai trò
hết sức quan trọng đối với sự tăng trưởng xuất khẩu của nước này. Các mặt hàng
SV: Lê Quốc Thắng
23
nông sản đang dần chiếm lĩnh được cảm tình của người tiêu dùng Mỹ và đóng góp
rất nhiều vào kim ngạch XNK. Mặt khác, mặt hàng dứa hiện nay đang là mặt hàng
chủ lực của Tổng công ty Rau quả Việt Nam nên nó được tạo điều kiện rất nhiều cả
về kỹ thuật lẫn chính sách khuyến khích sản xuất. Dứa Queen hiện đang được ưu

pháp luật phức tạp nhưng chặt chẽ và khắt khe thuộc loại hàng đầu thế giới. Do tính
nghiêm ngặt của luật pháp Mỹ nên doanh nghiệp Việt Nam quen kiểu làm ăn chụp
giật, luồn lách sẽ dễ mắc sai lầm và phải trả giá khá đắt khi kinh doanh với Mỹ. Để
kinh doanh thành công trên đất Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiều
các công cụ, chính sách thương mại cuẩ Mỹ, nắm vững các đạo luật về bảo vệ môi
trường, luật chống độc quyền, luật chống phá giá, luật thuế bù giá, luật về trách
nhiệm sản phẩm, luật về nhãn hiệu hàng hoá và phát minh sáng chế,… Tuy được
hưởng ưu đãi tối huệ quốc MFN nhưng việc thâm nhập vào thị trường Mỹ cong
vướng phải vô số các trở ngại phi thuế quan khác. Ví dụ về vụ cá basa của chúng ta
là một việc điển hình trong việc áp đặt giá cả cũng như tính chất của sản phẩm trên
thị trường Mỹ. Hay là việc tăng thuế thép lên 30-40% cho thấy sự bảo hộ của
chính phủ Mỹ đối với doanh nghiệp trong nước rất cao.
Nguyên nhân của các tình trạng nói trên là do doanh nghiệp Việt Nam chủ
yếu có quy mô nhỏ và vừa, khả năng về vốn, công nghệ, quản lý và kinh nghiệm
kinh doanh quốc tế còn rất thấp. Hơn nữa, các doanh nghiệp cũng chưa năng động,
sáng tạo và chủ động trong việc thích ứng với thị trường, chưa xây dựng được
chiến lược kinh doanh, các thông tin về nhu cầu, giá cả, đối tác trên thị trường
khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thâm nhập vào các kênh phân
phối của Mỹ, dẽ rơi vào tình trạng ép giá, giao hàng không đúng thời hạn, chậm trễ
trong việc đổi mới chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng hàng hoá. Mặc dù có quy mô
nhỏ nhưng các doanh nghiệp Việt Nam lại không có sự liên kết một cách thích
đáng để có thể đáp ứng các đơn đặt hàng với quy mô lớn. Các doanh nghiệp Việt
SV: Lê Quốc Thắng
25

Trích đoạn Chức năng và nhiệm vụ của Tổng cụng ty Rau quả Việt Nam a.Chức năng Về cụng nghiệp. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU DỨA CỦA TỔNG CễNG TY RAU QUẢ VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG HOA Kè. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU DỨAVÀO THỊ TRƯỜNG MỸ
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status