biện pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi đáp ứng chương trình giáo dục mầm non 2009 - Pdf 32

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lâm Ngọc Bình

BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI ĐÁP ỨNG
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON 2009

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lâm Ngọc Bình

BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI ĐÁP ỨNG
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON 2009

Chuyên ngành :

Giáo dục học (Mầm non)

Mã số

60 14 01 01


nhận được sự hướng dẫn, góp ý, giúp đỡ nhiệt tình từ quý thầy cô, đồng nghiệp, bạn bè và
sự động viên của gia đình.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô Trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sài gòn, Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành
phố Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy tôi trong suốt thời gian học tập chương trình cao học
tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi xin gửi lời cám ơn đến TS. Phạm Phước Mạnh đã quan tâm, hướng dẫn cho tôi
trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin cảm ơn quý Thầy Cô phòng Sau đại học Trường Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học và nghiên cứu.
Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu, giáo viên mầm non của 18 trường
mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi khảo sát
để hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy Cô trong hội đồng đánh giá, góp ý đề
cương nghiên cứu và hội đồng chấm luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn
thành tốt luận văn này.
Tác giả luận văn

Lâm Ngọc Bình

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CÁM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT............................................ 5
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................6



2.3.3. Thực trạng xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện HĐTH cho trẻ MG5 – 6T của
GVMN .............................................................................................................................38
2.3.4. Thực trạng mức độ thực hiện và hiệu quả của các hình thức tổ chức HĐTH cho
trẻ MG5-6T......................................................................................................................42
2.3.5. Thực trạng tổ chức các hoạt động cho trẻ MG5-6T trong HĐTH ........................44
2.3.6. Thực trạng tính hiệu quả và mức độ sử dụng các phương pháp giáo dục khi tổ
chức HĐTH cho trẻ MG5-6T ..........................................................................................47
2.3.7. Thực trạng tổ chức góc tạo hình cho trẻ MG5-6T tại lớp .....................................53

CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH CHO TRẺ
G5-6T ĐÁP ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON 2009 ................. 60
3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp ...........................................................................................60
3.2. Biện pháp tổ chức HĐTH cho trẻ MG5-6T đáp ứng chương trình GDMN 2009
............................................................................................................................................67

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 76
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 80

4


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGDĐT

:

Bộ Giáo dục Đào tạo


GDVN

:

Giáo dục Việt Nam

GVMN

:

Giáo viên Mầm non

GVSP

:

Giáo viên Sư phạm

HĐTH

:

Hoạt động tạo hình

KĐY

:

Không đồng ý

“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”.
Đầu tư cho trẻ em tức là đầu tư cho tương lai của đất nước. Ở nước ta và ngay cả trên
thế giới hiếm có vị lãnh tụ nào dành nhiều tình cảm, suy nghĩ và cả thời gian quý báu cho
các cháu thiếu niên, nhi đồng như Bác Hồ. Trong bản di chúc (10/5/1965 – 19/5/1969), Bác
viết “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy chăm sóc giáo dục
tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ…
Vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và
giáo dục các cháu bé cho tốt”. Tiếp nối quan điểm giáo dục “trồng người” của Bác, nước ta
đang là một trong những quốc gia được tổ chức UNESCO đánh giá đã dành ưu tiên cho
GDMN trong những năm gần đây. Nhất là việc thực hiện các chính sách, mở rộng dịch vụ,
đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng cho giáo dục mầm non. Đánh dấu cho bước
chuyển trên là sự ra đời của chương trình mầm non mới chính thức ban hành năm 2009 với
nhiều hướng mở, tạo điều kiện tốt nhất cho việc chăm sóc giáo dục hướng đến sự phát triển
toàn diện của trẻ mầm non. Theo Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm
2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nêu “Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát
triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân
cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một”.[38]
Danh ngôn giáo dục có câu “Mục tiêu của giáo dục không phải là dạy cách kiếm sống
hay cung cấp công cụ để đạt được sự giàu có, mà đó phải là con đường dẫn lối tâm hồn con
người vươn đến cái Chân và thực hành cái Thiện” (Chính trị gia Ấn Độ Vijaya Lakshmi
Pandit). Ở thế kỉ XVII, nhà giáo dục vĩ đại A.Kômenski đã viết: “Giáo dục có mục đích
đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán, phát triển nhân cách… hãy tìm ra phương pháp
cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn” [14;1]. Sinh thời Bác Hồ coi trọng
việc giáo dục thế hệ trẻ không chỉ ở nội dung mà cả phương pháp dạy học, Bác thường nhắc
nhở: “Dạy trẻ như trồng cây non. Trông cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ
nhỏ tốt thì sau này cháu trở thành người tốt”, “Trong lúc học cần phải làm cho chúng vui,
trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học. Ở trong nhà, trong trường, trong xã hội chúng
đều vui, đều học…”[61], quan điểm này vẫn là kim chỉ nam cho quá trình dạy học trẻ mầm
6


của tính sáng tạo, khơi gợi cảm xúc đối với cái đẹp, thể hiện trí tưởng tượng phong phú,
ham muốn tạo ra cái đẹp. Đây là yếu tố cần thiết góp phần giúp trẻ phát triển toàn diện nhân
cách. Với các hoạt động như vẽ, nặn, chắp ghép, xếp dán …, hoạt động tạo hình không
7


những hấp dẫn trẻ tiếp cận tri thức một cách tích cực với thế giới xung quanh mà còn là cơ
hội để trẻ thể hiện tình cảm, cảm xúc và suy nghĩ của bản thân bằng ngôn ngữ tạo hình, điều
quan trọng là thông qua hoạt động giúp trẻ thể hiện cảm xúc, ước muốn một cách tự nhiên,
thoải mái. Vì vậy, đây là dạng hoạt động hội tụ các yếu tố để phát triển thể chất, trí tuệ, tình
cảm và thẩm mỹ. Có thể thấy HĐTH có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống và tâm hồn
của trẻ. Đặc biệt, đối với trẻ MG5-6T, HĐTH còn là môi trường tích cực trong việc chuẩn bị
cho trẻ các kỹ năng học tập để sẵn sàng bước vào lớp một như: trẻ được làm quen với nề
nếp thói quen học tập, làm quen với đồ dùng học tập (bút, giấy,…), tư thế ngồi, kỹ năng
cầm bút, cách thể hiện màu sắc và nuôi dưỡng sự tự tin cho trẻ trong cách thể hiện suy nghĩ,
ý tưởng của mình. Vì thế, trẻ được trải nghiệm những điều thú vị, thách thức với quá trình
tích lũy vốn tri thức. Tổ chức HĐTH cho trẻ mầm non đòi hỏi người GVMN phải có kế
hoạch hoạt động cụ thể, biết chọn lựa phương pháp, phương tiện phù hợp, biết tạo cơ hội
cho trẻ khai thác tri thức, cảm nhận nghệ thuật từ môi trường do GVMN tạo dựng.
Thực tế, chương trình GDMN 2009 đã được triển khai thực hiện thí điểm từ năm 2006
và được ban hành chính thức vào năm 2009. Tuy nhiên, việc triển khai nội dung chương
trình ở từng khu vực, địa phương chưa có sự thống nhất, công tác quản lý thực hiện chương
trình mới bước đầu đi vào chiều sâu, khiến giáo viên chưa thể nắm vững nội dung, cũng như
giao thoa từ chương trình cũ sang mới, bản thân giáo viên còn nhiều lúng túng, chưa định
hướng cách tổ chức hoạt động giáo dục theo quan điểm của chương trình GDMN hiện hành,
đặc biệt việc tổ chức hoạt động tạo hình chưa phát huy tiềm năng sáng tạo nghệ thuật của
trẻ. Kết quả 3 năm triển khai thực hiện chương trình GDMN 2009 cho thấy: “Thực trạng
này có thể do nhận thức của GVMN về HĐTH chưa đồng đều; kỹ nặng lập kế hoạch và
chọn lựa nội dung, hình thức tổ chức HĐTH còn cứng nhắc, chưa đa dạng; phương pháp tổ
chức, biện pháp thực hiện chưa phù hợp, môi trường tạo hình chưa kích thích tính tích cực

đáp ứng chương trình GDMN 2009.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận về biện pháp tổ chức HĐTH cho trẻ mầm non và
chương trình GDMN 2009 nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc đề xuất biện pháp tổ chức
HĐTH cho trẻ MG5-6T đáp ứng chương trình GDMN 2009
Khảo sát GVMN về biện pháp tổ chức HĐTH cho trẻ MG5-6T đáp ứng chương trình
GDMN 2009.
Đề xuất một số biện pháp tổ chức HĐTH cho trẻ MG5-6T đáp ứng chương trình
GDMN 2009 và khảo sát tính khả thi của chúng trong thực tiễn.

6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu biện pháp tổ chức HĐTH cho trẻ MG5-6T đáp ứng chương trình
GDMN 2009 cụ thể qua công việc của GVMN khi tổ chức HĐTH cho trẻ MG5-6T đáp ứng
chương trình GDMN 2009.
9


Khảo sát nhận thức của 110 - 130 GVMN ở một số trường MN tại Thành phố Hồ Chí
Minh về biện pháp tổ chức HĐTH cho trẻ MG5-6T đáp ứng chương trình GDMN.
Phỏng vấn 20 giảng viên, cán bộ quản lý chuyên ngành GDMN.
Khảo sát 150 GVMN và 30 cán bộ quản lý, giáo viên sư phạm ngành GDMN về tính
khả thi của các biện pháp đề xuất.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập tài liệu về chương trình GDMN; biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục đáp
ứng chương trình GDMN 2009; hoạt động tạo hình của trẻ mầm non.
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn có
liên quan như: yêu cầu thực hiện chương trình GDMN 2009, biện pháp tổ chức HĐTH cho

Mục đích

Công cụ điều tra

Tìm hiểu thực trạng việc tổ Mẫu 1: Phiếu khảo sát dành cho GVMN
chức HĐTH cho trẻ MG5- đang giảng dạy trẻ MG5-6T (125 phiếu
6T
Giai

theo

chương

trình phát ra, 125 phiếu thu vào, đạt tỉ lệ
nhận 100%)

GDMN hiện hành,

đoạn 1 thức của GVMN về chương Mẫu 2: Phiếu trưng cầu ý kiến dành cho
trình GDMN hiện hành.

ban giám hiệu trường mầm non (20
phiếu phát ra, 20 phiếu thu vào, đạt tỉ lệ
100% )

Tìm hiểu mức độ đánh giá Mẫu 3: Phiếu khảo sát cùng cho ban
tính khả thi của các biện giám hiệu trường mầm non, giáo viên sư
Giai
đoạn 2



Quận 11

Măng non 10, Mầm non quận 11.

04

14

10

42

Quận Bình Tân Hương Sen, Hoa Hồng, Sen Hồng, Tân Tạo,
11


19/5
Quận Tân Phú

Mầm non quận Tân Phú

02

14

Hóc Môn

Sơn Ca


Thực trạng biện pháp tổ chức HĐTH cho trẻ MG5-6T đáp ứng chương trình GDMN
2009 ở một số trường mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Một số biện pháp tổ chức HĐTH cho trẻ MG5-6T đáp ứng chương trình GDMN 2009.

12


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT

ĐỘNG TẠO HÌNH CHO TRẺ MG5-6T ĐÁP ỨNG CHƯƠNG
TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON 2009

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khoa học triết học từ khi được hình thành, phát triển cho đến thế kỷ thứ XVIII thì tư
tưởng mỹ học vẫn chưa có đối tượng riêng mà chỉ là một phần của triết học, nó nhận thế
giới quan, phương pháp luận từ triết học. Đối với nghệ thuật học - khoa học nghiên cứu các
loại hình nghệ thuật cụ thể tương ứng - mỹ học cung cấp những nguyên lý phổ biến cho
chúng và xác định cái đẹp là một phạm trù mỹ học mà không đồng nhất nó với các biểu hiện
cụ thể là các vẻ đẹp sinh động, riêng lẻ, ngẫu nhiên, trong đời sống thường ngày. Cùng với
sự phát triển của xã hội, thẩm mỹ và nghệ thuật phát triển mạnh ở thời Phục hưng. Lúc này,
những nguyên lý chung của triết học không thể giải quyết được những vấn đề của đời sống
thẩm mỹ, đặc biệt là các hoạt động thuộc lĩnh vực nghệ thuật. Từ đó, nảy sinh nhu cầu phải
có một môn khoa học mới, đó chính là mỹ học. Năm 1750, Baumgácten đã cho xuất bản
cuốn mỹ học đầu tiên, ở đó ông xác định mỹ học là nghiên cứu việc nhận thức thế giới bằng
cảm xúc. Đến nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu giáo dục tìm hiểu những vấn đề có liên quan
đến mỹ học – nghệ thuật và cái đẹp bởi lẽ cái đẹp luôn là điều mà nhân loại hướng đến.
Những nghiên cứu ấy, đã tìm hiểu về nghệ thuật tạo hình dưới nhiều góc độ khác nhau: từ
phạm vi giáo dục con người nói chung, cho đến giáo dục trẻ thơ nói riêng, cả lĩnh vực đào
tạo bồi dưỡng GV dạy Mỹ thuật và đào tạo GVMN... đều là những thành tựu rất bổ ích,
những đóng góp rất lớn trong việc góp phần xây dựng nên nhân cách con người trong mọi

trang trí” [51]. Đây là kết luận mang tính thực tiễn, định hướng cho GVMN lên kế hoạch,
sắp xếp và thực hiện có trình tự các hình thức hoạt động tạo hình trang trí, làm cho trẻ đạt
kết quả cao hơn trong hoạt động này.
Trong những năm 80, tranh vẽ của trẻ em đã trở thành mối quan tâm của nhiều trường
phái khoa học khác nhau. Thông qua tranh vẽ của trẻ, các nhà khoa học muốn thâm nhập
vào thế giới nội tâm đầy hấp dẫn của trẻ, các nhà giáo dục học muốn tìm con đường dạy học
tối ưu tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của trẻ. Hình vẽ của trẻ lần đầu tiên được
Corrado Ricci (1887), một nhà phê bình hội họa đã phát hiện ý nghĩa trong những hình vẽ
người của trẻ em. Sau đó đã có những công trình nghiên cứu của Slly (1895),
Kerschensteiner (1905), Levinstein (1905) Katzaroff (1909 - 1910), Luquet (1913). Năm
1926, F.Goodenough - một nhà tâm lý đã đưa ra phương pháp đánh giá trí tuệ qua hình vẽ
người của trẻ em. Hình vẽ người đã trở thành một công cụ trắc nghiệm đánh giá chỉ số
thông minh (IQ). Năm 1949, Machover đưa ra phuơng pháp nhận định nhân cách dựa trên
14


hình vẽ người. Những năm 1970-1972, Burnss và Kaufman cho rằng, có thể nhận xét khả
năng nhận thức, đánh giá bản thân cũng như mối quan hệ với những người xung quanh trẻ
qua tranh vẽ gia đình.
Nhìn chung, việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em được các nhà giáo dục học, tâm lý học
từ các nước trên thế giới nghiên cứu từ lâu và đã vạch ra chương trình, mục tiêu, nội dung,
phương pháp, xây dựng kế hoạch và hướng dẫn cụ thể trong việc tổ chức cho trẻ làm quen
với các loại hình nghệ thuật theo quan điểm làm giàu kinh nghiệm cho trẻ để phát triển
tưởng tượng của trẻ trong HĐTH. Đồng thời, vấn đề quản lý việc thực hiện chương trình
giáo dục rất được chú trọng, theo nhà giáo dục Nga M.I.Kondakop khẳng định “Kết quả
toàn bộ hoạt động quản lý của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và
hợp lý các hoạt động giảng dạy của đội ngũ giáo viên” [15, tr28]
Ở Việt Nam, xét về khía cạnh giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em cũng nhận được sự quan
tâm của các nhà tâm lý – giáo dục học từ những năm 70 của thế kỉ XX. Năm 1973, Nguyễn
Văn Thành đã có nghiên cứu về hình vẽ người của trẻ bình thường và trẻ chậm phát triển trí

của tri giác đối với sự phát triển tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ. Cùng với
kết quả nghiên cứu về “Một số biện pháp bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo
thông qua hoạt động tạo hình” của tác giả Phan Thị Việt Hoa đã chỉ ra con đường bồi dưỡng
cảm xúc thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo là thông qua HĐTH. Hai kết quả nghiên cứu trên đã tạo
dựng cơ sở lý luận khoa học về đặc điểm khả năng tri giác của trẻ và cảm xúc thẩm mỹ của
trẻ trong HĐTH. Năm 2000, kết quả nghiên cứu về “ Một số biện pháp giáo dục thẩm mỹ
thông qua hình thức vẽ ngoài trời cho trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi” của tác giả Nguyễn Thị Hải đã
tiếp tục cung cấp những biện pháp gây hứng thú và phát triển thẩm mỹ cho trẻ trong hoạt
động ngoài trời thông qua hình thức vẽ. Năm 2001, kết quả nghiên cứu về “Một số biện
pháp phát huy tính tích cực của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ” của tác giả
Nguyễn Thị Kim Dung đã mở ra hướng nhìn về tích tích cực của trẻ trong HĐTH nói chung,
hoạt động vẽ nói riêng.
Những công trình nghiên cứu trên đã chứng minh tầm quan trọng của HĐTH đối với
sự phát triển về nhận thức, thẩm mỹ, khả năng tưởng tượng của trẻ mẫu giáo. Tiếp tục là
nền tảng cơ sở lý luận cho các công trình nghiên cứu trong 10 năm trở lại đây:
Năm 2005, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Kim đã thực hiện đề tài “ Một số biện pháp bồi
dưỡng khả năng sáng tạo của trẻ MG 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động vẽ theo ý thích”. Tác
giả đã thành công khi đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng sáng tạo của trẻ
thông qua hoạt động vẽ theo ý thích. Kết quả nghiên cứu năm 2006 về “Một số biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả giờ học vẽ trang trí của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi” của tác giả Hoàng
Thị Lan Hương đã cho thấy hiệu quả của giờ học vẽ trang trí của trẻ phụ thuộc rất lớn vào
việc giáo viên biết lựa chọn và sử dụng những biện pháp tác động thích hợp với đặc trưng
của hoạt động vẽ trang trí. Năm 2009, kết quả nghiên cứu về “Tưởng tượng sáng tạo của trẻ
16


MG 5 – 6 tuổi qua hoạt động vẽ” của tác giả Vũ Thị Thu Hà cũng đã thành công khi đánh
giá tính sáng tạo của trẻ dưới sự hỗ trợ của Test TSD-Z để tìm hiểu mức độ tính sáng tạo
của trẻ và từ đó, đưa ra các biện pháp tác động tâm lý nhằm tạo điều kiện cho khả năng tưởng
tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi được bộc lộ và phát triển qua hoạt động vẽ. Năm

Năm 2012, kết quả nghiên cứu của Bùi Mỹ Liên về “Thực trạng quản lý việc thực hiện
chương trình GDMN tại các trường mầm non quận Tân Bình, Thành Phố Hồ Chí Minh” đã
phát thảo về những ưu điểm và hạn chế trong việc quản lý thực hiện chương trình GDMN
tại các trường mầm non thuộc quận Tân Bình. Cụ thể về công tác giáo dục đã tạo được
những điều kiện về bồi dưỡng chuyên môn, kế hoạch huy động trẻ 5 tuổi đến trường và ứng
dụng chương trình Mind Manager vào việc lập kế hoạch, tạo được cho trẻ sự thoải mái, tự
tin trong giao tiếp và tham gia hoạt động. Mặt khác, điểm hạn chế nổi trội nhất ảnh hưởng
đến mục tiêu giáo dục cho trẻ mầm non đó là chất lượng việc thực hiện chương trình giáo
dục chưa đồng đều giữa các trường, giáo viên chưa linh hoạt, chưa tận dụng các cơ hội, tình
huống diễn ra hàng ngày để tích hợp vào hoạt động giáo dục. Kết quả nghiên cứu của đề tài
cho thấy vẫn còn tồn tại những khó khăn trong việc triển khai thực hiện chương trình
GDMN hiện hành giữa các cấp, khiến quá trình thực hiện chương trình chỉ dừng lại ở chiều
dọc, chưa thể hiện được chiều sâu.
Từ kết quả các công trình nghiên cứu trên cho thấy muốn thay đổi hay đề xuất biện
pháp nâng cao chất lượng giáo dục cần có sự nhìn nhận và đánh giá đúng đắn từ thực tiễn.
Ngoài ra, quá trình đánh giá cần được thực hiện nghiêm túc nhằm đáp ứng nhiệm vụ trọng
tâm của GDMN trong chỉ thị năm học 2012 – 2013 (2737/CT-BGDĐT ), trong chỉ thị nêu
rõ nhiệm vụ chung: “Đẩy mạnh hoạt động khảo thí, kiểm định và đánh giá chất lượng giáo
dục”, Đối với GDMN có nêu: “ ... tiếp tục triển khai tự đánh giá trong các trường mầm
non”, “Tổ chức, thực hiện Chương trình GDMN mới trên phạm vi toàn quốc”. Để tiếp tục
tìm hiểu thực trạng thực hiện chương trình GDMN hiện hành nói chung, tìm hiểu thực trạng
tổ chức hoạt động giáo dục đáp ứng chương trình nói riêng đã, đang và sẽ là vấn đề cấp thiết
nhằm phát hiện và xây dựng biện pháp khắc phục những hạn chế trong công tác giáo dục,
đem lại hiệu quả trong quá trình giáo dục trẻ. Vì lẽ đó, đề tài “ Biện pháp tổ chức hoạt động
tạo hình cho trẻ MG5-6T đáp ứng chương trình GDMN” với định hướng tìm hiểu thực trạng
tổ chức HĐTH cho trẻ MG5-6T theo chương trình GDMN hiện hành ở một số trường mầm
non tại Thành phồ Hồ Chí Minh nhằm đánh giá thực tiễn về nhận thức của GVMN về
chương trình và quá trình tổ chức HĐTH cho trẻ MG5-6T tại trường mầm non, xác định
những khó khăn và nguyên nhân trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả giáo
dục khi tổ chức HĐTH cho trẻ MG5-6T đáp ứng chương trình GDMN hiện hành.

B. Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục mầm non và đánh giá sự phát triển
của trẻ
Phần 2: Chương trình giáo dục nhà trẻ
Phần 3: Chương trình giáo dục mẫu giáo
Phần 4: Hướng dẫn thực hiện chương trình

19


Theo lời của TS.Lê Minh Hà – Nguyên vụ trưởng Vụ GDMN: “ Chương trình GDMN
mới thay thế cho chương trình GDMN thí điểm thực hiện từ tháng 9-2006, đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục phổ thông mà trước hết và quan trọng nhất là bậc tiểu học. chương trình
GDMN mới không phải là một sự đột phá mà nó dựa trên chương trình thí điểm có kế thừa
các chương trình đã có như đã nói ở trên. Quá trình xây dựng chương trình GDMN mới có
thể tóm tắt như sau: Năm 1998-2002 triển khai nghiên cứu một số đề tài đổi mới, sau đó bắt
tay vào biên soạn dự thảo chương trình và tổ chức thẩm định chương trình trước khi triển
khai thí điểm; tổ chức thực hiện thí điểm năm 2006; Tổ chức thẩm định lần cuối chuẩn bị
ban hành chính thức vào năm 2009.” [59] Những điểm mới của chương trình GDMN 2009
cụ thể như sau:
+ Đây là chương trình khung mang tính mở, là cơ sở để các cấp quản lý GDMN, các
GVMN tổ chức và thực hiện một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp với đặc điểm, điều kiện
địa phương, cơ sở mầm non. Điểm nổi trội của chương trình là mở ra một cách dạy – cách
học mới, hướng đến nhu cầu, hứng thú học tập của trẻ.
+ Về mục tiêu giáo dục: bên cạnh mục tiêu chung, có mục tiêu cho trẻ cuối độ tuổi nhà
trẻ và cuối độ tuổi mẫu giáo theo các lĩnh vực phát triển của trẻ nhằm hướng đến phát triển
toàn diện về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm – kỹ năng xã hội, thẩm mỹ; chú trọng
hình thành ở trẻ những chức năng tâm lý, năng lực chung của con người, phát triển tốt đa
tiềm năng vốn có, hình thành những kỹ năng sống cần thiết cho trẻ và phù hợp với yêu cầu
của gia đình, cộng đồng, xã hội, chuẩn bị tốt cho trẻ vào học giai đoạn sau và cho việc học
suốt đời.

 Coi trọng tiếp cận cá nhân trong chăm sóc – giáo dục trẻ. Kết hợp hài hòa giữa giáo
dục trẻ trong nhóm bán với giáo dục cá nhân, chú ý đặc điểm riêng của từng trẻ để có
phương pháp giáo dục phù hợp. Tổ chức hợp lý các hình thức hoạt động cá nhân, theo nhóm
nhỏ và cả lớp, phù hợp với độ tuổi.
- Đánh giá sự phát triển của trẻ: trong đánh giá phải có sự phối hợp nhiều phương
pháp, hình thức đánh giá coi trọng đánh giá sự tiến bộ của từng trẻ và đánh giá trẻ thường
xuyên qua quan sát hoạt động hằng ngày, trên cơ sở đó giúp giáo viên điều chỉnh kế hoạch
giáo dục, tổ chức các hoạt động giáo dục tiếp theo cho phù hợp với thực tế và với trẻ.
1.2.1.2. Quan điểm xây dựng chương trình GDMN
Dựa theo quan điểm xây dựng chương trình giáo dục mầm non theo thông tư số
17/2009/TT-BGDĐT bao gồm 3 quan điểm:
Quan điểm 1: Chương trình hướng đến sự phát triển toàn diện của trẻ
Chương trình coi trọng việc đảm bảo an toàn, nuôi dưỡng hợp lý, chăm sóc sức khỏe
cả thể chất lẫn tinh thần cho trẻ. Chương trình kết hợp hài hòa giữa chăm sóc và giáo dục,
21


giữa các mặt giáo dục để trẻ phát triển toàn diện, không chỉ chú trọng việc cung cấp cho trẻ
những kiến thức, kỹ năng đơn lẻ mà còn theo hướng tích hợp phù hợp với đặc điểm phát
triển, khả năng của trẻ
Quan điểm 2: Chương trình tạo điều kiện cho trẻ phát triển liên tục
Chương trình xây dựng trên 2 giai đoạn: chương trình giáo dục nhà trẻ và mẫu giáo.
Hai giai đoạn của chương trình được xây dựng có tính đồng tâm, phát triển giữa các độ tuổi.
Trong mỗi giai đoạn và giữa hai giai đoạn tạo điều kiện cho trẻ phát triển liên tục. Chương
trình chú trọng trong hoạt động chủ đạo của từng lứa tuổi, tạo các cơ hội để trẻ hoạt động
tích cực phù hợp với nhu cầu, sự phát triển của cá nhân trẻ.
Quan điểm 3: Chương trình đảm bảo đáp ứng sự đa dạng của các vùng miền và các đối
tượng trẻ
Chương trình bao gồm những nội dung cơ bản cốt lõi làm cơ sở cho việc lựa chọn
những nội dung giáo dục phù hợp với kinh nghiệm sống, khả năng của trẻ. Chương trình có

khích thái độ tốt đối với việc học và tiếp nhận mạo hiểm không sợ thất bại nơi trẻ. Trẻ học
có hiệu quả tốt nhất khi chúng là chủ thể của hoạt động. Điều này có nghĩa là: hỗ trợ việc
học của trẻ có nghĩa là giáo viên là người tổ chức hoạt động cho trẻ. Trẻ là người thực hiện
hoạt động đó, tuyệt đối giáo viên không làm thay. Muốn vậy thì hoạt động đó phải vừa sức
đối với trẻ. Không đặt yêu cầu cao hơn hoặc thấp hơn so với khả năng của trẻ. Song để cho
hoạt động có ý nghĩa phát triển thì yêu cầu đó phải “nằm trong vùng phát triển gần nhất”.
Nhiều cơ hội cần được cung cấp để trẻ học cách quan sát, nghiên cứu, khám phá và các hoạt
động thực hành. Giáo viên tạo các trải nghiệm học tập cả ở gia đình và ở trường.
1.2.2. Hoạt động tạo hình của trẻ mầm non
1.2.2.1. Vai trò của hoạt động tạo hình trong sự phát triển toàn diện của trẻ
HĐTH là hoạt động sáng tạo nghệ thuật, nó cũng như các hoạt động sáng tạo khác
như: âm nhạc, văn thơ, kịch, điện ảnh,…đều là những hoạt động tạo ra các giá trị vật chất và
tinh thần cho nhân loại và mang ý nghĩa xã hột. Đối với HĐTH, con người không chỉ cảm
nhận cái đẹp của thế giới xung quanh mà còn cải tạo nó theo quy luật của cái đẹp. Đối với
trẻ mầm non, HĐTH chưa phải là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật thực thụ. Mục đích và
kết quả to lớn nhất của quá trình hoạt động chính là sự biến đổi và phát triển của chính bản
thân trẻ. Giáo dục thông qua hoạt động tạo hình là sự bồi dưỡng khả năng nhận thức hiện
thực có tính chất chuyên biệt bằng hình ảnh. Khi tham gia HĐTH, trẻ tái tạo lại các hình
tượng quen thuộc đã tri giác được. Đó chính là những biểu tượng được hình thành trong quá
trình nhận thức trực tiếp các đồ vật, hiện tượng trong khi vui chơi, vốn sống, vốn kinh
nghiệm. Thông qua việc mô tả đó trẻ nhận biết được những thuộc tính và khả năng biểu cảm
khác nhau của các vật liệu tạo hình. Từ đó, có thể khẳng định rằng HĐTH là một trong
23


Trích đoạn Thực trạng tổ chức góc tạo hình cho trẻ MG5-6T tại lớp Cơ sở đề xuất biện pháp Biện pháp tổ chức HĐTH cho trẻ MG5-6T đáp ứng chương trình GDMN
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status