Quan niệm của thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ việt nam ngày nay - Pdf 31

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

1

Khóa luận tốt nghiệp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2


PHẠM THỊ THU PHƢƠNG

QUAN NIỆM CỦA THUYẾT “TAM TÒNG”,
“TỨ ĐỨC” TRONG NHO GIÁO VÀ
SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI
NGƢỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM NGÀY NAY

TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Hµ néi - 2012
Phạm Thị Thu Phương

K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

2

Khóa luận tốt nghiệp

đã đóng góp ý kiến và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo - TS. Vi Thái Lang,
người đó tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên
để em có thêm nghị lực trong học tập cũng như trong cuộc sống.

Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 06 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Phạm Thị Thu Phương

Phạm Thị Thu Phương

K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

4

Khóa luận tốt nghiệp

LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Vi Thái
Lang. Tôi xin cam đoan rằng:
- Khóa luận này là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất cứ công trình nghiên
cứu của tác giả nào đã được công bố trước đó.

TCN: Trước công nguyên

-

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Phạm Thị Thu Phương

K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

6

Khóa luận tốt nghiệp

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................8
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................................9
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................9
6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................10
7. Cấu trúc của khóa luận ......................................................................................10
Chương 1. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO ......................................11
1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của Nho giáo .............................................11
1.2. Một số nội dung chính của Nho giáo ..............................................................12
1.3. Thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo ...............................................15

góp phần trị nước. Đến thời Khổng Tử, ông đã hệ thống những tư tưởng và tri thức
rời rạc trước đây thành một học thuyết hoàn chỉnh gọi là Nho học hay “Khổng học”.
Nho học là một bộ phận cấu thành triết học Trung Quốc cổ trung đại. Kể từ
lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên (TCN) cho đến thời HánVũ Đế, Nho
giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng độc tôn và luôn giữ vị trí đó cho đến ngày
cuối cùng của chế độ phong kiến. Nho giáo rất phát triển ở các nước Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nét đặc thù của triết học Trung Quốc là có xu
hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội với nội
dung bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con
đường trị nước. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã thích nghi và phát
triển mạnh mẽ. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội đời sống Việt Nam, trong đó
không thể không kể tới thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” và những ảnh hưởng của nó
đối với người phụ nữ Việt Nam.
Trong hệ thống tư tưởng triết học Nho giáo, người phụ nữ không được coi
trọng, họ không có quyền lợi đối với bản thân cũng như xã hội. Nhưng những tư
tưởng tiến bộ của thời đại đã giải phóng người phụ nữ và đem lại cho họ quyền tự
do, bình đẳng đối với nam giới. Ở Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng và Nhà
nước ta đã khẳng định vai trò của người phụ nữ trong công cuộc đổi mới và xây
dựng đất nước: Con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, trong đó người phụ nữ là
lực lượng đông đảo, nắm vai trò to lớn trong gia đình và ngoài xã hội.

Phạm Thị Thu Phương

K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

8


Ngoài ra, trong nhiều sách báo, tạp chí như: Báo Phụ nữ, Tạp chí Gia đình,
Báo Tiền phong… phạm trù “Công - Dung - Ngôn - Hạnh” và thuyết “Tam tòng”
cũng được bàn đến nhưng nghiên cứu dưới góc độ hẹp và từng khía cạnh nhỏ.
Phạm Thị Thu Phương

K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

9

Khóa luận tốt nghiệp

Trên đây là một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về Nho giáo trên các
phương diện: giới thiệu tác giả, tác phẩm; đánh giá vai trò của một số nhà Nho tiêu
biểu, phân tích những nguyên lý cơ bản của Nho giáo; ảnh hưởng của Nho giáo đối
với Việt Nam. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về đề tài này đã nêu lên
những nội dung cơ bản của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” nhưng mới chỉ dùng lại ở
mức đại cương, khái quát, xung quanh nó vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn. Vì vậy,
thuyết này rất cần được nghiên cứu sâu hơn, mang tính hệ thống hơn, nhất là sự ảnh
hưởng tích cực, tiêu cực của nó đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay.

3. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần nhận thức đầy đủ hơn những tư tưởng của Nho giáo và ảnh hưởng
của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của thuyết này đối với người phụ nữ
Việt Nam hiện nay.
- Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và
tiếp thu, vận dụng sáng tạo giá trị tích cực của học thuyết, góp phần xây dựng và

cực của nó đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận được triển khai dựa trên cơ sở các phương pháp sau:
- Phương pháp luận: dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin. Đây là phương pháp xuyên suốt của đề tài. Phương pháp này giúp cho việc
nhìn nhận, đánh giá khách quan đúng đắn để giải quyết các vấn đề của đề tài đặt ra.
- Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như phân tích tổng hợp,
khái quát hóa, logic – lịch sử, so sánh, điều tra…

7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
còn có phần nội dung gồm 2 chương 7 tiết.

Phạm Thị Thu Phương

K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

11

Khóa luận tốt nghiệp

Chƣơng 1
TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO
1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của Nho giáo
Trung Hoa cổ đại có lịch sử phát triển lâu đời (từ cuối thế kỷ III TCN đến thế
kỷ II TCN). Đây là một trong những trung tâm văn hóa, khoa học và triết học cổ
xưa phong phú và rực rỡ nhất không chỉ của nền văn minh phương Đông mà còn là

12

Khóa luận tốt nghiệp

“Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí – Tín” mà dạy người, lấy cương thường mà hạn chế nhân
dục để giữ trật tự trong xã hội cho bền vững.

của
TCN,

tư tưởng Nho giáo của ông mới trở thành tư tưởng chính thống.
, văn hoá... mà còn ăn sâu trong hành vi và phương thức
.
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ “Lục kinh”
gồm có: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc.
Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh gọi là “Ngũ kinh”. Sau khi
Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn “Luận ngữ”.
Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Tử đã dựa vào lời thầy mà soạn ra sách
“Đại học”. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra
cuốn “Trung Dung”. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau
này được ghi chép thành sách “Mạnh Tử”. Hệ thống những tư tưởng, học thuyết của
Khổng Tử được lưu truyền rộng và gây ảnh hưởng tới nhiều dân tộc trong khu vực
Châu Á, trong đó có Việt Nam.

1.2. Một số nội dung chính của Nho giáo
Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được
người cai trị kiểu mẫu. Người lý tưởng này gọi là “quân tử”. Quân tử là chỉ những
người cao thượng, có phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với tiểu nhân là những người
thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Để trở thành người quân tử, con người
ta trước hết phải “tự đào tạo”, phải “tu thân” và sau cùng phải “hành đạo”. Về cơ

* Ngũ thường: “ngũ” là năm, “thường” là hằng có. Ngũ Thường là năm điều
phải có trong khi ở đời, gồm: Nhân (lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật) Nghĩa (cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải) - Lễ (sự tôn trọng, hòa nhã
trong khi cư xử với mọi người) - Trí (sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng
sai) - Tín (giữ đúng lời, đáng tin cậy).
* Tam Tòng: “tam” là ba, “tòng” là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ
phải theo, gồm: tại gia tòng phụ (người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha), xuất
giá tòng phu (phụ nữ khi lấy chồng phải theo chồng), phu tử tòng tử (chồng qua đời
phải theo con).
* Tứ Đức: “tứ” là bốn; “đức” là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ
nữ phải có, gồm: Công (khéo léo trong việc làm) - Dung (hòa nhã trong sắc diện) Ngôn (mềm mại trong lời nói) - Hạnh (nhu mì trong tính nết).
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
* Đạt Đạo: Đạo có nghĩa là con đường, hay phương cách ứng xử mà người
quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. “Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo
vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè” (sách Trung Dung),
tương đương với “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu”. Đó chính là
Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là “trung dung”. Tuy
Phạm Thị Thu Phương

K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

14

Khóa luận tốt nghiệp

nhiên, đến Hán Nho Ngũ Luân được tập trung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng
nhất được gọi là “Tam thường”.
* Đạt Đức: Quân tử phải đạt được ba đức: “nhân - trí - dũng”. Khổng Tử nói:

K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

15

Khóa luận tốt nghiệp

lý, nội dung từng thời kỳ có thêm bớt nhưng căn bản vẫn là những lễ giáo phong
kiến không ngoài mục đích duy nhất là ràng buộc con người vào khuôn khổ pháp lý.
Nho giáo phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Trong quá trình phát triển, nó
ngày càng bị trừu tượng hóa trên quan điểm siêu hình. Tuy nhiên, quan điểm đạo
đức của Nho giáo cũng có rất nhiều điểm tích cực. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một
tinh thần trách nhiệm cao cả với xã hội.

1.3. Thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo
Con người trong Nho giáo được bàn đến dưới nhiều góc độ, tuy nhiên thường
được chú trọng vào khía cạnh luân lí, đạo đức. Người phụ nữ trong Nho giáo ít
được bàn đến, nhưng không phải là không có, điều này thể hiện trong thuyết “Tam
tòng”, “Tứ đức”.
Nho giáo thường đề cập tới người phụ nữ ở những vấn đề về đạo làm vợ, đạo
làm con; các quan hệ với mọi người trong gia tộc, ngoài xã hội; quan niệm về phạm
vi, lĩnh vực, công việc mà họ được phép tham gia. Theo đó, người phụ nữ phải tuân
theo các quy tắc của “Tam tòng”, “Tứ đức”: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu tử tòng tử (ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con) và Công
– Dung – Ngôn - Hạnh (Giỏi nữ công gia chánh nghĩa là Công; giữ gìn dung nhan
đẹp đẽ cho chồng nghĩa là Dung; ngôn từ dịu dàng, biết lựa lời nói, không nói lời
xấu, biết khi nào được nói, khi nào không được nói, như thế gọi là Ngôn; giữ gìn
trinh tiết cho chồng cả lúc chồng sống lẫn sau khi chồng chết, tuân thủ tam tòng,

“Tam tòng” khiến người phụ nữ khi xuất giá thì dù hoàn cảnh tốt hay xấu thế nào
cũng đã trở thành người nhà chồng, chứ không nương nhờ ai được nữa.

1.3.2. “Tứ đức”
Với người phụ nữ, “Tứ đức” bao gồm bốn đức là “Công – Dung – Ngôn –
Hạnh”.
- “Công” chỉ sự khéo léo, đảm đang trong công việc gia đình, là nữ công gia
chánh, tề gia nội trợ. Tuy nhiên, mọi công việc với người phụ nữ xưa chủ yếu chỉ là
may vá, thêu dệt, bếp núc, buôn bán, với người phụ nữ giỏi thì có thêm “cầm – kỳ thi – họa”. Giới hạn về nội dung, về phạm vi công việc mà người phụ nữ được
quyền tham gia chỉ bó hẹp trong gia đình. Một người phụ nữ mẫu mực là người phụ
nữ chăm chỉ, hiền thục, lo toan thu vén việc nhà, là người nâng khăn, sửa túi cho
chồng. Công việc ngoài xã hội không thuộc về trách nhiệm của họ.
- “Dung” là vẻ đẹp hình thức, thể hiện dáng vẻ tự nhiên kết hợp với trang
phục, tạo nên sự đoan trang, thùy mị nói chung. Ngoại hình người đàn bà phải hòa
nhã, gọn gàng, biết tôn trọng hình thức bản thân. Chuẩn mực vẻ đẹp xưa của người
phụ nữ là sự thùy mị, kín đáo, duyên dáng. Quan niệm về hình thức cũng thể hiện vị
trí khiêm nhường của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Cái đẹp của người phụ
nữ theo quan niệm cổ truyền cũng phải là cái đẹp đem lại điều tốt lành, có ích lợi
cho chồng, cho con “vượng phu ích tử”.
Phạm Thị Thu Phương

K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

17

Khóa luận tốt nghiệp



K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

18

Khóa luận tốt nghiệp

hiếu tử không theo mệnh là hợp với đạo trung. Hai là, theo mệnh thì cha mẹ nhục,
không theo mệnh thì cha mẹ vinh, người hiếu tử không theo mệnh là hợp với điều
nghĩa. Ba là, theo mệnh là cầm thú, không theo mệnh làm cho cha mẹ được vẻ
vang, người hiếu tử không theo mệnh là kính cha mẹ. Cho nên, điều đáng theo mà
không theo là không phải đạo làm con, chưa nên theo mà đã theo là không hợp đạo
trung. Biết rõ cái đáng theo và không đáng theo mà lại hết sức cung kính, trung tín,
đoan xác, rồi cứ cẩn thận mà làm, thế gọi là đạo hiếu.
Đến thời nhà Hán, tư tưởng chính trị và triết học của Đổng Trọng Thư cũng có
đề cập đến phạm trù “Tam tòng”, “Tứ đức” nhưng đã tước đi những yếu tố nhân văn
của Khổng Tử mà thay vào đó là một quy tắc đạo đức phi nghĩa lý: Vua bảo bề tôi
chết, bề tôi phải chết, nếu không mắc tội bất trung. Cha bảo con chết, con phải chết,
nếu không mắc tội bất hiếu. Chồng nói, vợ tuyệt đối phải nghe theo, người phụ nữ
trong gia đình không có quyền tham gia hay phản kháng. Như vậy, đạo lý làm
người đã trở nên khắt khe hơn bao giờ hết.

1.3.3. Mối quan hệ giữa “Tam tòng”, “Tứ đức”
“Tam tòng” và “Tứ đức” là hai chuẩn mực đạo đức cơ bản để xây dựng mẫu
người phụ nữ phong kiến của Nho giáo. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ, không thể
tách rời. Đó là những quy tắc, chuẩn mực bắt buộc đối với người phụ nữ và đều
được giai cấp thống trị phong kiến sử dụng như một công cụ để giáo hóa người phụ

Việt Nam là một nước từ lâu đời chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa.
Nho giáo từ trên một ngàn năm được giai cấp thống trị ở Việt Nam sử dụng như tư
tưởng chủ đạo trong kiến trúc thượng tầng của xã hội. Trong suốt thời kỳ phong
kiến ở Việt Nam, toàn thể giới tri thức, dù khác nhau về quan điểm chính trị và văn
hóa nhưng đều tự coi mình là những “đệ tử” của Nho giáo, lấy tiêu chuẩn đạo đức
của Nho giáo làm phương châm cho suy nghĩa và hành động.
Sự du nhập Nho giáo vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự xâm lược của các
thế lực phong kiến phương Bắc (vào thế kỷ thứ II SCN, tức vào thời Tây Hán) bằng
việc thực hiện chính sách đồng hóa và được chính quyền đô hộ nâng đỡ. Do đó, lúc
đầu Nho giáo không được thiện cảm và bắt rễ chậm chạp hơn so với Phật giáo. Trải
qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, Nho giáo vẫn chưa xác lập được vị trí độc tôn
trong đời sống.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt hơn một ngàn năm
Bắc thuộc, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam. Vào thời điểm này,
Phật giáo có vị trí đặc biệt quan trọng. Các triều đại đầu tiên của nền độc lập như
Ngô, Đinh, Lê không theo đạo Nho mà theo đạo Phật. Đến thế kỷ XI, với sự xác lập
của vương triều Lý, nhà nước phong kiến tập quyền được xây dựng một cách quy
mô bề thế với những tổ chức và thể chế trùng điệp của nó. Từ khi ra đời, do nhu cầu
quản lý nhà nước, nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho giáo. Sự đóng góp của các
nhà sư vào sự ổn định đất nước ở thời điểm này là chủ yếu, nhưng xu hướng Nho
giáo cũng đang dần thay thế Phật giáo. Việc Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu thờ
Chu Công, Khổng Tử (1070) như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức Nho giáo
Phạm Thị Thu Phương

K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

20

kiến tập quyền phương Bắc, lấy Nho giáo là cơ sở lý luận, là hệ tư tưởng thống trị
xã hội, lấy thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” làm chuẩn mực để người phụ nữ noi theo.
Nho giáo khi du nhập vào Việt Nam đã tinh giản Nho giáo Trung Quốc thành
một loại hình ý thức mang màu sắc đặc thù riêng của dân tộc. Nho Việt chủ yếu đi
Phạm Thị Thu Phương

K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

21

Khóa luận tốt nghiệp

vào những vấn đề cấp bách, thiết thực do đời sống xã hội đặt ra và chỉ sử dụng một
phần có giá trị thực dụng để bảo vệ tổ quốc khỏi ách ngoại xâm hoặc gắn kết với
quyền lực của kẻ thống trị. Các sĩ phu Việt Nam thường tiếp nhận những luân lí đạo
đức cơ bản của Nho giáo để áp dụng vào công cuộc xây dựng gia đình và cộng
đồng. Khuynh hướng này đã loại bỏ những phần rối rắm, phức tạp chính vì thế nó
cũng lược bỏ những chỗ thâm sâu, làm mất tính hệ thống, tính lôgic, thiếu cơ sở lý
luận, thiếu sự chặt chẽ.
Việt Nam là một nước có truyền thống tôn trọng phụ nữ. Trong suốt thời kì
mẫu hệ, trải qua thời kì phong kiến và mãi về sau này, xã hội Việt Nam đã thừa
hưởng và bảo lưu truyền thống tốt đẹp ấy. Mỗi người dân Việt Nam luôn ghi nhớ về
công ơn sinh thành của mẹ Âu Cơ với bọc trăm trứng. Bộ luật Hồng Đức của nhà
Lê năm 1843 có quy định người con gái được thừa hưởng quyền chia tài sản sở hữu
của gia đình bình đẳng như con trai; khi lấy chồng phần tài sản này là của riêng
không bị nhập vào tài sản nhà chồng... Như vậy, truyền thống tôn trọng phụ nữ của
dân tộc Việt Nam không chỉ là đạo lý mà còn được nhà nước phong kiến hợp pháp

bén rễ từ rất lâu và có ảnh hưởng sâu sắc đối với xã hội Việt Nam. Qua mỗi thời đại
khác nhau, Nho giáo nói chung và thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” nói riêng lại có
những biến đổi khác nhau về nội dung và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng, hành
động của người phụ nữ.
Khác với Nho giáo Trung Hoa, thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam
mang một sắc thái đặc trưng riêng. Dưới góc độ gia đình, trong quan hệ giữa cha mẹ
với con cái thì “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Con cái trong gia đình phải luôn
nghe theo sự dạy bảo, sai khiến của cha mẹ.
Trong quan hệ vợ chồng, người chồng có quyền quyết định mọi công việc.
Người con gái đã có chồng thời một mực chính chuyên, rủi khi chồng chết trước
cũng phải thủ tiết cho vẹn tình vẹn nghĩa:
“Thủa tại gia phải tòng phụ giáo,
Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên”
(“Gia Huấn Ca” – Nguyễn Trãi)
Trong quan hệ giữa con cái với nhau, người con trai luôn có quyền lợi nhiều
hơn con gái. Điều này được thể hiện rõ nét trong tư tưởng “trọng nam khinh nữ”
của tổ tiên ta xưa kia. Tất cả những điều này đều phục vụ đắc lực cho mục đích của
giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến nhằm đảm bảo tôn ti trật tự thuận theo
một chiều từ trên xuống dưới, từ trong gia đình ra ngoài xã hội.
Phạm Thị Thu Phương

K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

23

Khóa luận tốt nghiệp


K34 GDCD - GDQP


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

24

Khóa luận tốt nghiệp

đàn ông trong gia đình, còn người phụ nữ thì phải cam chịu, nhẫn nhịn cho tròn bổn
phận của mình. Tóm lại, người phụ nữ trong xã hội phong kiến, vừa phải chịu sự áp
bức của giặc ngoại xâm, vừa phải chịu cả sự áp bức về giai cấp, về giới. Họ là nô lệ,
là nạn nhân của những hủ tục lạc hậu, của lễ giáo phong kiến.
Với quan niệm “Xuất giá tòng phu”, xã hội phong kiến quy định người phụ nữ
khi đi lấy chồng là phải theo chồng, phục tùng chồng một cách vô điều kiện. Theo
đó, người chồng dù tốt đẹp hay xấu xa, dù hay dù dở thì người vợ vẫn phải nghe
theo. Cuộc sống phụ thuộc vào người khác đã biến người phụ nữ thành kẻ cam chịu,
buông xuôi với số phận. Họ không có quyền và cũng không dám tự quyết định hôn
nhân, hạnh phúc của mình mà phó thác cuộc đời cho sự may rủi, cho số phận. Bởi
thế, ca dao Việt Nam đã có câu:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Đạo “Tam tòng” thực sự là sợi dây oan nghiệt trói chặt cuộc đời người phụ nữ.
Trước thực trạng đó, nhiều người phụ nữ đã ý thức được tài năng, phẩm giá của
mình đồng thời nhận ra thế lực kìm hãm cuộc đời mình. Theo như nữ thi sĩ Hồ
Xuân Hương thì thân phận người phụ nữ “tròn” hay “méo”, “lành” hay “vỡ” là do
tay “người nhào nặn”, là do số phận an bài. Người phụ nữ trong gia đình dường như
là một thứ công cụ để sai bảo. Họ không có tiếng nói trong gia đình mà chỉ biết
nghe theo, phải hi sinh bản thân cho người khác vì họ không có địa vị, không có
chút quyền lợi nào trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Thực tế trên cho thấy,

như vợ cả với vợ hai... Đó là số phận con người mà như Khổng Tử nói thì con
người có “mệnh”, và không thể cưỡng lại “mệnh”. Xét cho cùng, đạo đức, lễ nghĩa
và trật tự xã hội Nho giáo gần như không thực sự dành quyền con người cho người
phụ nữ. Quan niệm “Phụ nhân nan hóa” chính là hậu quả và cũng là nguyên nhân
của những thành kiến xã hội quá nặng nề nhưng có mấy ai hiểu được sự hy sinh,
những đắng cay và nỗi lòng của người phụ nữ.
Sau thành công của Cách mạng tháng Tám, chế độ phong kiến sụp đổ, chúng
ta bắt tay vào xây dựng chế độ mới. Do đó, xã hội không còn cơ sở để phục hồi
những khuôn phép của chế độ cũ mà trong đó Nho học làm nền tảng tư tưởng. Tuy
nhiên, sự ảnh hưởng Nho giáo nói chung và của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” nói
riêng vẫn còn tồn tại và có thể phát huy tác dụng trong việc giáo hóa người phụ nữ
thời kì mới.
Sau đổi mới, người phụ nữ thực sự có quyền bình đẳng, thực sự được giải
phóng do đó thuyết “Tam tòng” đã mang nội dung mới với phạm vi rộng hơn, cao
cả hơn. Quyền bình đẳng ấy không chỉ được ghi trong hiến pháp, pháp luật mà nó
còn đi vào cuộc sống, cách suy nghĩ và nhận thức của mỗi người. Người phụ nữ
trong thời đại mới đã khẳng định được bản thân mình trong nhiều lĩnh vực cuộc
sống gia đình và xã hội, tạo điều kiện để họ thực hiện, phát huy tài năng, khát vọng,
Phạm Thị Thu Phương

K34 GDCD - GDQP



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status