Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mai cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank chi nhánh thăng long - Pdf 31

39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển nhanh của các ngân hàng thì ngân hàng VPBank
cũng đã dần khẳng định được vị thế của mình trên thị trường trong nước.
Nước ta hiện nay có 63 ngân hàng cổ phần Vpbank được xếp vào một
trong 10 ngân hàng lớn nhất Việt Nam. Và góp vai trò không nhỏ đối với sự
phát triển trong nền kinh tế.
Khi mà nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển phần lớn
các doanh nghiệp trên toàn quốc là doanh nghiệp vừa và nhỏ.Quy mô tài
chính còn nhỏ vì vậy khó khăn trong việc vay vốn các ngan hàng nhà
nước.Tuy thế triển vọng phát triển của các ngân hàng nay là rất tốt.nhận định
điều nỳ Vpbank đã xác định mục tiêu chiến lược của mình là là ngân hàng
bán lẻ , cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và cho vay tiêu dùng.Vì
vậy em chọn đề tài: “Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ”làm đề tài thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Xem xét một cách tổng quát và có hệ thống thực trạng hoạt động sản xuất
kinh doanh của các DNV&N và việc đầu tư tín dụng của VPBank Thăng Long
cho các doanh nghiệp này. Đồng thời đề tài cũng đưa ra một số giải pháp nhằm
mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNV&N trên phạm vi hoạt động của
VPBank. chi nhánh Thăng Long.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chọn mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNV&N tại VPBank
chi nhánh Thăng Long trong những năm gần đây làm đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học để phân tích lý luận giải thực tiễn : Phương pháp duy vật biện
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
1

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1 Khái niệm ,đặc điểm,vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1 Khái niệm các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là bộ phận không thể thiếu được của nền kinh
tế ,có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời với các chủ thể khác.Việc
phân chia doanh nghiệp dựa vào tiêu thức quy mô doanh nghiệp .theo tiêu
thức này doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Có nhiều quan điểm về DNV&N nhưng khái niệm chung nhất về DNV&N có
nội dung như sau.
Doanh ngiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách
pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong
những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn lao động doanh thu, giá
trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ, theo quy định của từng quốc gia.
DNV&N là những doanh nghiêp có quy mô nhỏ bế về vốn, lao động,
doanh thu. DNV&N có thể chia làm 3 loại cũng căn cứ vào quy mô đó là
doanh nghệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Theo luật doanh nghiệp Việt Nam 2005, doanh nghiệp siêu nhỏ là
doanh nghiệp có số lao động nhỏ hơn 10,doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp
có số lao động từ 10 đến 50, doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao
động từ 50 đến 300 ngưới.
Mỗi nước đều có tiêu chí để xác định DNV&N ở nước mình. Ở Việt
Nam khái niệm DNV&N được đưa ra điều 3 ,nghị định 90/2001/ NĐ/CP-
12/03/2001 của chính phủ về trợ giúp phát triển DNV&N. “DNV&N là cơ sở
sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành,
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
3
39

39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
vấn, khách sạn, nhà hàng (25,3%). Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
và Tổng cục Thống Kê, chỉ tính riêng năm 2005, số lượng doanh nghiệp đăng
ký mới (chủ yếu là DNV&N) đã là 45.162 doanh nghiệp, bằng tổng số doanh
nghiệp trước giai đoạn 2000.
Có nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, nếu phân loại doanh nghiệp
theo hình thức sở hữu thì có doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp cổ phần… Nếu phân loại theo quy mô
nguồn vốn thì có doanh nghiệp lớn và DNV&N. Trong đề tài này, tập trung
vào DNV&N vì đây là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống các
doanh nghiệp Việt Nam và đây cũng là những doanh nghiệp đóng góp một vai
trò không nhỏ trong nền kinh tế. Nếu chúng ta có một định hướng đúng đắn
đối với các DNV&N thì sẽ có một sự thúc đẩy phát triển kinh tế to lớn, từ đó
làm điểm tựa vững chắc để đưa đất nước phát triển.
Từ khái niệm DNV&N “là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng
ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”, cho thấy,
tuyệt đại đa số doanh nghiệp của chúng ta nằm trong “bảng”.
Hiện nay, các DNV&N tập trung chủ yếu ở thành thị, chủ yếu ở các
thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng…
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, số lượng DNV&N ngày
càng tăng mạnh. Như tên gọi của mình, DNV&N mang những đặc điểm riêng
rất khác biệt so với các doanh nghiệp lớn trên thị trường. Đồng thời, do đặc
điểm nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa mà
DNV&N mang những đặc trưng cơ bản sau:
1.1.2.2 Đặc điểm của các DNV&N
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
5
39

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
kinh tế có biến động lớn, ví dụ biến động về đầu vào, DNV&N khó có khả
năng chống đỡ và dễ bị dẫn đến phá sản. Đồng thời, với số lao động ít (< 300
người), các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp nhiều cản trở trong quá trình sản
xuất kinh doanh và mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhất là với tình trạng ít lao
động, doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khó có được các lao động với tay nghề cao.
Với số lao động ít như vậy, sẽ khó mở các lớp đào tạo nâng cao tay nghề
nghiệp vụ cho các nhân viên. Và vì đa số người lao động, nhất là người lao
động có tay nghề nghiệp vụ, trình độ chuyên môn giỏi, khi tìm kiếm việc làm
đều có xu hướng muốn vào các doanh nghiệp lớn trên thị trường, điều này
khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn trong quá trình tuyển mộ và
phải đầu tư nhiều hơn cho công tác marketing tuyển mộ lao động.
c) Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân
(chiếm khoảng 80%) do đặc điểm về quy mô vốn và số lượng lao động. Điều
này tạo khó khăn cho việc quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhất là đối
với các doanh nghiệp tư nhân hoạt động linh hoạt nhưng kém hiệu quả. Các
doanh nghiệp tư nhân thường khi thành lập và trong quá trình hoạt động chưa
có một tầm nhìn chiến lược cho doanh nghiệp của mình. Và trong khi vận
hành sản xuất kinh doanh, khi có một biến cố xảy ra thì không có kinh
nghiệm chống đỡ hoặc không đủ khả năng chống đỡ, dẫn đến thua lỗ hoặc
nặng hơn là phá sản. Việc quản lý các doanh nghiệp tư nhân cũng rất khó
khăn. Nhiều doanh nghiệp còn cố tình làm ăn phi pháp, cố tình trốn thuế và
không thực hiện đúng chế độ kế toán thống kê. Để quản lý tốt các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, đòi hỏi một sự theo dõi sát sao và thực sự có hiệu quả.
Như vậy mới có thể mới kiểm soát được hoạt động của loại hình doanh
nghiệp này.
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
7

39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
doanh nghiệp, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có
phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường.
Vì thế, nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh
nghiệm và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất các DNV&N của Việt
Nam trước áp lực cạnh tranh quốc tế.
f) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động linh hoạt, năng động
Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những thành phần
hoạt động linh hoạt nhất. Với mỗi thay đổi nhỏ nhất của nền kinh tế, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đều chịu tác động và phải điều chỉnh hoạt động của
mình để phù hợp với mỗi biến đổi đó. Với tính năng động như vậy, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã đạt được hiệu quả trong hoạt động của mình và đóng
góp không nhỏ vào nền kinh tế. Sự đa dạng về loại hình hoạt động, phương
thức quản lý, sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp cho họ đứng
vững được trong thị trường.
1.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
1.2.1. Các hình thức cho vay của NHTM đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất. Ở các nước trên
thế giới thì hoạt động tín dụng chiếm 50-60% lợi nhuận, còn ở Việt Nam thì
chiếm tới 60-70%. Song song với hoạt động huy động vốn, tín dụng tạo ra
nguồn lợi nhuận chính duy trì hoạt động của ngân hàng. Hoạt động tín dụng
ngân hàng được dựa trên quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước số
1627/2001/QĐ/NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành quy chế
cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo đó quan hệ tín dụng
giữa khách hàng và ngân hàng có thể hiểu như sau:
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
9

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Việc xác định phương thức cho vay có một ý nghĩa rất quan trọng của
quá trình cấp tín dụng cho khách hàng. Nếu xác định đúng phương thức cho
vay cho từng doanh nghiệp từ đó sẽ tạo ra yếu tố tích cực giúp cho khách
hàng thuận lợi trong quá trình giao dịch và chủ động về tài chính trong quá
trình sản xuất kinh doanh và thuận lợi để thực hiện phương án sản xuất kinh
doanh, khuyến khích được khách hàng về quan hệ vay vốn với ngân hàng,
Ngân hàng chủ động trong việc cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Nếu
xác định sai phương thức cho vay sẽ dẫn đến Ngân hàng không kiểm soát chặt
chẽ được số vốn cho vay làm tăng rủi ro tín dụng, không khuyến khích được
khách hàng vay vốn.
Hiện nay các ngân hàng thường áp dụng các phương thức cho vay sau:
1.2.1.1 Cho vay thấu chi
Cho vay thấu chi là nghiệp vu cho vay qua đó ngân hàng cho phép
người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới
hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là
hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi
và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá
trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt
số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có
tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà
khách hàng phải trả là:
Số lãi phải trả= Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi.
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ
sử dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng
không phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
11
39

TSLĐ và TSCĐ - Giá trị tài sản và chi phí không thuộc đối tượng tài trợ
của ngân hàng.
Nếu cho vay dự trên giá trị tài sản đảm bảo:
Số lượng cho vay= Giá trị tài sản đảm bảo x Tỷ lệ cho vay trên giá
trị tài sản đảm bảo.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi.
Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục
đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng
sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc
thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm
soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo.
1.2.1.3 Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ.
Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Mỗi lần vay, khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay,
nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay.
Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát
tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ.
Khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
13
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành
các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần

cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn
kịp thời , vì vậy việc thanh toán cho người cung ứng sẽ nhanh gọn.
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ thì ngân hàng sẽ gặp khó
khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định
rõ ràng.
1.2.1.5 Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức cho vay, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã theo thoả thuận. Cho
vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài
trợ cho tài sản cố định và tài sản lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán
sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau
thuế cuả dự án, hoặc từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua
hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho ngưòi bán lẻ về số hàng hoá
mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận tiền ngay sau khi
bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách
hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức cho vay tài trợ người mua
(qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá
mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay.
Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của
ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp
thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
15

Trích đoạn Sự hình thành và phát triển Hoạt động của Trung tâm Thẻ
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status