Kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở việt nam hiện nay - Pdf 31

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------

TRƯƠNG PHƯƠNG DUNG

KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT
TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------

TRƯƠNG PHƯƠNG DUNG

KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT
TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ



Tác giả luận văn

Trương Phương Dung


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ......................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ........................................................... 8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu................................................ 8
6. Đóng góp mới của luận văn...................................................................... 9
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ..................................................................... 9
8. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 9
B. NỘI DUNG............................................................................................. 10
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC
VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ............................................................. 10
1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền, đạo đức và pháp luật 10
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ................................................................. 10
1.1.2.Một số vấn đề lý luận về đạo đức và vai trò của đạo đức trong xã hội.
..................................................................................................................... 18
1.1.3. Một số vấn đề lý luận về pháp luật và vai trò của pháp luật trong nhà
nước và xã hội. ............................................................................................. 22
1.2. Tính tất yếu của việc kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ................. 27
1.2.1. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật.............................................. 27

phạm đạo đức; chú trọng giáo dục cải tạo khi xử lý người vi phạm pháp luật.
..................................................................................................................... 81
KẾT LUẬN ................................................................................................. 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 87


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

NNPQ

: Nhà nước pháp quyền

NNPQ XHCN

: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội quan trọng trong
kiến trúc thượng tầng, có vai trò rất quan trọng đối với việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Trong xã hội Á Đông truyền thống, đạo đức vốn được xem là
công cụ chủ yếu của các nhà cầm quyền dùng để điều chỉnh hành vi con
người, nhằm đem lại sự ổn định cho xã hội. Dần dần, sự phát tiển của xã hội
làm cho các quan hệ xã hội biến đổi ngày càng phong phú và phức tạp, mà
nếu chỉ dựa vào đạo đức, trật tự xã hội không được bảo đảm. Khi đó, pháp
luật xuất hiện với chức năng điều chỉnh hành vi con người mang tính bắt
buộc. Cả đạo đức và pháp luật đều có những thế mạnh và điểm yếu riêng. Tuy
vậy, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, biện chứng, tác động, ảnh hưởng
và bổ sung cho nhau. Thực tiễn quản lý xã hội của các quốc gia cho thấy

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài Kết hợp
đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay để viết Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam là một vấn đề đang được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm. Về phương diện lý luận, từ trước đến nay, mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức đã thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học ở
một số lĩnh vực như: Luật học, Đạo đức học và Triết học.
Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu theo hai mảng sau:
Nhóm công trình nghiên cứu về đạo đức, pháp luật, về vai trò của
đạo đức và pháp luật trong xã hội gồm có:
Lê Quang Thưởng (1994), Tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo đức truyền
thống và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phan Văn Tỉnh (1994),
Đạo đức truyền thống của dân tộc là môi trường thuận lợi của việc thực hiện
pháp luật, Xã hội và Pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn
2


Quốc Việt (2002), Bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong quá
trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu cấp
khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Tuyết Ba (2002), Vai trò của
đạo đức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường, Tạp chí Triết học, số 5; Nguyễn Bình Đặng Lục (2005), Vai trò của
pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
Hoàng Thị Kim Quế (2007), Pháp luật và đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội; Nguyễn Minh Đoan (2009), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã
hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trong đó, nổi bật là các công trình:
Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam (Nxb Khoa

pháp, Hà Nội, 2007). Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu khá đồ sộ về
pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng. Trong đó, tác giả đã đề
cập một cách tương đối toàn diện các vấn đề như vị trí, vai trò của pháp luật
và đạo đức trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội; sự thống nhất,
sự khác biệt và sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức. Công trình cũng
giới thiệu cho người đọc những nội dung cơ bản trong tư tưởng pháp luật và
đạo đức ở phương Đông, phương Tây. Cuốn sách cũng đề cập đến thực trạng
đạo đức, pháp luật trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Qua đó, tác giả đề xuất nhiều giải pháp nhằm tăng cường quản lý xã hội bằng
pháp luật kết hợp giáo dục thực hành đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả không luận
giải các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nhận thức của con người...
ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, và chưa phân tích
mối quan hệ này trong điều kiện cụ thể xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam hiện nay.
Tiếp theo là cuốn Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội của tác
giả Nguyễn Minh Đoan (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009). Đây là một
cuốn sách viết về vai trò của pháp luật với nội dung khá rõ ràng và dễ hiểu.
4


Trong đó, tác giả phân tích sâu sắc về vai trò của pháp luật đối với nhà nước,
đối với đời sống kinh tế - xã hội, đối với đường lối, chính sách của Đảng...
Thông qua bốn chương của cuốn sách, tác giả nhấn mạnh rằng, pháp luật là
công cụ quản lý xã hội không thể thiếu, công cụ quản lý xã hội quan trọng, có
hiệu quả nhất. Tuy nhiên, tác giả cũng khẳng định pháp luật không phải là
công cụ quản lý duy nhất, càng không phải là công cụ quản lý vạn năng.
Thông qua luận giải của tác giả, người đọc có thể hình dung một cách rõ ràng
về vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội.
Nhóm công trình nghiên cứu về sự kết hợp, mối quan hệ giữa đạo

Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn cần phải thực hiện
những nhiệm vụ sau:
Một là, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền, về
đạo đức và pháp luật, về mối quan hệ giữa đạo đức pháp luật.
Hai là, làm rõ tính tất yếu và thực trạng của việc kết hợp đạo đức và
pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Ba là, bước đầu đề xuất một số giải pháp phát huy hiệu quả việc kết
hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong quá trình xây
dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu sự kết hợp đạo đức và pháp luật
trong xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam, từ thời kỳ Đổi mới đến nay, thể
hiện trong các văn kiện Đảng, trong hoạt động lập pháp và thực thi pháp luật
trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan niệm của triết học Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về lý luận
NNPQ XHCN, về pháp luật và đạo đức. Ngoài ra, luận văn còn tham khảo, sử
dụng kết quả các công trình trong nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài
nước có liên quan trực tiếp đến nội dung của luận văn.

8


- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu các phương
pháp của phép biện chứng duy vật như: Phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp thống nhất logic – lịch sử, khái quát hóa…
6. Đóng góp mới của luận văn
- Trên cơ sở lý giải sự cần thiết và thực trạng kết hợp giữa đạo đức và

giữa nhà nước và pháp luật. Sau đó những ý tưởng này được phát triển thành
tư tưởng có giá trị phổ biến của nhân loại. Nội dung chủ yếu của tư tưởng nhà
nước pháp quyền là đề cao vai trò của pháp luật nhằm bảo vệ các giá trị xã
hội như tự do, công bằng, bình đẳng và phát triển.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, do đòi hỏi của lịch sử và xuất phát từ
khát vọng về tự do, dân chủ, có hai thời kỳ xuất hiện nhiều tư tưởng, quan
điểm tích cực, tiến bộ về nhà nước pháp quyền. Đó là thời kỳ nhà nước cổ đại
Hy Lạp, La Mã khi mà nhà nước chiếm hữu nô lệ đã thể hiện hết tính chất tàn
bạo, dã man của nó và thời kỳ cách mạng tư sản ở châu Âu khi giai cấp tư sản
phát động các cuộc cách mạng đánh đổ chế độ phong kiến chuyên chế, xây
dựng nền cộng hoà và xã hội tự do, bình đẳng, bác ái.
Những tư tưởng tích cực tiến bộ về Nhà nước pháp quyền trong thời kỳ
cổ đại ở phương Tây thể hiện rõ nét ở các nhà tư tưởng tiêu biểu của thời kỳ
này như Solong, Socrat, Platon, Aristot, Xixeron v.v…
Solong (638-559 tr.CN) được coi là người đầu tiên nêu ý tưởng về nhà
nước pháp quyền khi ông chủ trương cải cách nhà nước Athen bằng việc đề
10


cao vai trò của pháp luật. Theo ông, chỉ có pháp luật mới thiết lập được trật tự
và tạo nên sự thống nhất, ông chủ trương giải phóng tất cả mọi người bằng
pháp luật, nhà nước và pháp luật là hai công cụ để thực hiện dân chủ, tự do và
công bằng, vì vậy, hãy kết hợp sức mạnh quyền lực nhà nước với pháp luật.
Nhà nước Athen với những tư tưởng cải cách của Solong được xem là nhà
nước dân chủ nhất cho đến thời điểm đó.
Heraclit (520-460 tr.CN) cho rằng pháp quyền là phương tiện quan
trọng để chống lại cực quyền, ông kêu gọi nhân dân phải đấu tranh để bảo vệ
pháp luật như bảo vệ chốn nương thân của mình.
Platon (427-374 tr.CN) quan niệm tinh thần thượng tôn pháp luật phải
là nguyên tắc, bản thân nhà nước và các nhân viên nhà nước phải tôn trọng

Tiếp sau John Lock, Montesquieu (1698-1755) trong tác phẩm
“Tinh thần pháp luật” đã đề ra lý thuyết phân chia quyền lực, một trong
những nội dung chủ yếu của NNPQ tư sản. Ông quan niệm, khi nắm trong
tay quyền lực con người thường có xu hướng lạm dụng nó, vì vậy, phân
chia quyền lực để tránh lạm quyền. Theo ông, mỗi quốc gia đều có ba thứ
quyền lực là: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Để
chống độc quyền thì ba thứ quyền lực này phải được tổ chức sao cho có
tính độc lập và kiềm chế lẫn nhau.
J.J.Rousseau (1712-1788) trong “Bàn về khế ước xã hội” đã coi khế
ước xã hội là cơ sở để giải quyết các vấn đề về nhà nước, pháp luật và công
dân. Ông đã bàn cặn kẽ về “tam quyền” theo lý thuyết của Montessquieu.
“Khế ước xã hội” là ý chí chung, là quyền lực tối cao được thiết lập từ những
cá thể thành viên hợp lại. Ý chí chung của toàn thể dân chúng khi được công
bố nó trở thành luật.
Đến I.Kant (1724-1804) – học giả người Đức, lý thuyết về nhà nước
pháp quyền tư sản với tính cách là một học thuyết triết học – chính trị tương
đối hoàn chỉnh đã được xác định. Ông triệt để tán thành việc áp dụng lý

12


thuyết phân quyền. Theo ông ở đâu áp dụng nguyên tắc này thì ở đó có
NNPQ, nếu không chỉ là chuyên quyền.
Lý luận kinh điển về NNPQ phát triểm mạnh ở nước Đức vào nửa đầu
thế kỷ XIX. Robert Fon Mohn, Karl Teodor Valker - hai nhà luật học người
Đức, là những người đầu tiên dùng thuật ngữ NNPQ đã được lập luận trong
triết hoc của Canter, Hegen. Mohn và Valker đề ra nguyên tắc về tính tối cao
của luật như là tiêu chuẩn quan trọng nhất của NNPQ. Theo Mohn, trong ba
loại quyền trong NNPQ thì quyền lập pháp có vị trí cao nhất, không thể không
có sự kiểm tra của các cơ quan tư pháp lớn hơn sự hoạt động lập pháp mà chỉ

kế thừa và hoàn thiện trong quá trình vận động đó, để đi đến những quan điểm
chung thống nhất về nhà nước pháp quyền.
* Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền
Nghiên cứu các tư tưởng, quan điểm về Nhà nước pháp quyền trong
lịch sử tư tưởng nhân loại, có thể rút ra những điểm chung, khái quát về đặc
trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền như sau:
- Nhà nước pháp quyền là tổ chức chính trị của nhân dân, là biểu hiện
tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp
quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà nước. Mục tiêu của nhà nước
pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực
chính trị thuộc về nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm chủ quyền của nhân dân bằng pháp luật, là
nhà nước thượng tôn pháp luật, trong đó pháp luật phải phản ánh "ý chí chung
của nhân dân", "lợi ích chung của xã hội".
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ được
các quyền tự do, dân chủ của công dân.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về
những hoạt động của mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ đối với
nhà nước và chịu trách nhiệm pháp lý về những hành vi vi phạm pháp luật của mình.
14


- Nhà nước pháp quyền tư sản có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước
theo nguyên tắc tam quyền phân lập, có sự phân chia, đối trọng và kiểm soát
quyền lực nhà nước giữ ba bộ phận: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm sự độc lập của Toà án và
tính chất dân chủ, minh bạch của pháp luật. Có cơ chế giám sát sự tuân thủ
pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện.
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn

cuộc xây dựng NNPQ XHCN trên nhiều mặt và xác định phải tiếp tục đẩy
mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế”, “xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về
nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa
các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn
bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến,
hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền” [12,
tr.126]. Như vậy, ở đây chúng ta vẫn dễ dàng nhận thấy rằng, tính pháp chế là
đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền và bản chất của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về mặt tư duy
lý luận, có lẽ điểm khác biệt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam so với các nhà nước pháp quyền khác là ở cơ chế vận hành của nhà
nước, bởi vì ở các nhà nước pháp quyền tư sản thì cơ chế vận hành phổ biến
là “tam quyền phân lập”. Còn chúng ta xác định quyền lực nhà nước là tập
trung, thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp thực hiện quyền lực.
Chủ trương đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam với những đặc trưng đã nêu ở trên vẫn tiếp tục được khẳng định tại
Đại hội XI của Đảng, trong đó Đảng ta đặc biệt chú ý đến việc “nâng cao
16


năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương” [13, tr.247].
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang những đặc
trưng sau:
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực sự
của dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hồ Chí
Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì

Về mặt tư duy lý luận, điểm khác biệt của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam so với các nhà nước pháp quyền tư sản là ở cơ chế vận
hành của nhà nước. Nếu các nhà nước pháp quyền tư sản có cơ chế vận hành
phổ biến là “tam quyền phân lập”, thì NNPQ XHCN ở Việt Nam có sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Điều này để nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất,
cũng chính là dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước
và pháp luật.
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về đạo đức và vai trò của đạo đức trong
xã hội.
- Thuật ngữ "đạo đức" trong tiếng Anh là Morality, trong tiếng Pháp là
Morale…, có gốc từ Latinh là Moris, có nghĩa là lề thói, đạo nghĩa. Thuật ngữ
này được hình thành từ rất sớm trong xã hội chiếm hữu nô lệ, khoảng thế kỷ
IV trước công nguyên, gắn với tên tuổi nhà tư tưởng vĩ đại Arixtốt (384-322)
trước công nguyên. Thời kỳ xa xôi người ta quan niệm đạo đức là những
chuẩn mực chung nhằm điều chỉnh hành vi con người, sao cho tạo nên mối
quan hệ hài hòa giữa con người với nhau, giữa con người với xã hội. Theo
tiếng Hy Lạp cổ Ethos là luân lý, là thói quen, là phong tục tập quán, thông
qua đó mà điều chỉnh hành vi của con người. Sau này, người phương Tây
cũng dùng từ "Ethique" với nghĩa là đạo đức học.
Ở phương Đông, Trung Quốc là nơi mà các nhà tư tưởng nói đến đạo
đức nhiều nhất, điển hình là Nho giáo. Trong tiếng Trung Quốc, chữ "đạo
18



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status