Thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ việt nam hiện nay - Pdf 31

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

NGUYN TH VN

thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo
và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ
việt nam hiện nay
Chuyờn ngnh : CNDVBC & CNDVLS
Mó s

: 62 22 80 05

LUN N TIN S TRIT HC

Ngi hng dn khoa hc: GS.TS NGUYN HNG HU

H NI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong
luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng.
Những kết quả khoa học của luận án chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Vân



18

Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC ĐỐI
VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC
TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người
phụ nữ Việt Nam hiện nay
3.2. Ảnh hưởng tích cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người
phụ nữ Việt Nam hiện nay
3.3. Những nhân tố làm biến đổi sự ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ
đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay
3.4. Một số vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức
trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay

62
62
89
108
115

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA THUYẾT TAM TÒNG, TỨ
ĐỨC ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Một số quan điểm chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với
người phụ nữ Việt Nam hiện nay

95
96

Bảng 3.5: Bảng tham khảo người quản lý tài chính gia đình theo vùng
điều tra

96


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo ra đời thời Xuân Thu - Chiến Quốc - thời kỳ mà tình hình
kinh tế - xã hội có nhiều biến động nhất trong lịch sử Trung Quốc. Các nước
chư hầu nhà Chu tranh giành quyền lực, tàn sát lẫn nhau làm cho xã hội lâm
vào cảnh loạn lạc, rối ren. Trước tình hình đó, các nhà tư tưởng của Nho giáo
đã lý giải các vấn đề xã hội và họ muốn tìm ra phương pháp đưa xã hội từ
loạn lạc tới thịnh trị. Chính vì vậy, có nhiều ý kiến cho rằng, thực chất Nho
giáo là đạo trị nước, Nho giáo là đạo làm người vì bàn nhiều tới việc giáo dục
đạo đức cho con người - nhân tố giúp xã hội ổn định, trật tự.
Nội dung giáo dục đạo đức cho con người của Nho giáo tập trung ở các
phạm trù cơ bản như Tam cương, Ngũ thường, Chính danh. Đối với người
phụ nữ, nội dung giáo dục đạo đức của Nho giáo thể hiện rõ thông qua thuyết
tam tòng, tứ đức.
Nho giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Khi vào Việt
Nam, nó được cải biến đi cho phù hợp với tính chất ôn hòa vốn có của người
Việt. Trong quá trình tồn tại, giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng Nho giáo
làm công cụ để thiết lập ổn định trật tự xã hội và duy trì sự thống trị của giai
cấp cầm quyền. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, Nho giáo đã có

nữ nhằm đáp ứng nhu cầu mới của thời đại. Người phụ nữ Việt Nam ngày nay
phải hướng tới vẻ đẹp toàn diện hơn, trí tuệ hơn, giỏi việc nước đảm việc nhà,
tích cực tham gia các hoạt động xã hội...
Những quy tắc, chuẩn mực của thuyết tam tòng, tứ đức được sử dụng
một cách hợp lý sẽ trở thành nhân tố quan trọng nâng cao vị trí, vai trò của
người phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện đại. Điều đó cho thấy việc cần thiết
phải nghiên cứu thực trạng ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho
giáo đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay để đưa ra những giải pháp
nhằm phát huy giá trị tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đối với sự
nghiệp giải phóng phụ nữ.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, nghiên cứu sinh lựa chọn
vấn đề: “Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với
người phụ nữ Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho luận án Tiến sĩ của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ nội dung chủ yếu của thuyết tam tòng, tứ đức trong
Nho giáo Trung Quốc và Việt Nam, phân tích ảnh hưởng của nó; luận án đề


3

xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những ảnh hưởng
tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối
với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những nội dung cơ bản của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho
giáo Trung Quốc và Nho giáo Việt Nam.
- Làm rõ thực trạng ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của thuyết tam tòng,
tứ đức trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam xưa và nay.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những

thuyết tam tòng, tứ đức đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.
- Từ những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực và những mâu thuẫn đang tồn
tại trong xã hội, luận án đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam
tòng, tứ đức đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Luận án lý giải rõ hơn về thuyết tam tòng, tứ đức của Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo
trong việc hoạch định, thực thi chính sách trong công tác phụ nữ của Đảng và
Nhà nước ta hiện nay.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu
Nho giáo ở Việt Nam, vị trí, vai trò của người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 11 tiết.


5

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO VÀ
THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC TRONG NHO GIÁO

Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về đạo đức Nho giáo
Trong tác phẩm Nho giáo (quyển Thượng và quyển Hạ), Trần Trọng
Kim đã khái quát quá trình hình thành, phát triển và các quan điểm của Nho

giáo dục con người [110] đã khái quát quan điểm giáo dục con người của Nho
giáo nhằm đào tạo những người quân tử, những kẻ sĩ có phẩm chất đạo đức
cao quý, ham hiểu biết, có nhân cách, có ý thức đối với cộng đồng để làm
quan. Những người này vừa là hạt nhân trong cuộc sống xã hội, vừa là lực
lượng để bổ sung cho các thế lực cầm quyền duy trì chế độ phong kiến. Song,
Nho giáo dạy đạo làm người theo quan điểm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” chứa
đựng nhiều yếu tố hợp lý. Những điều răn dạy đó được cha ông ta tiếp thu có
chọn lọc, bởi vậy, nó trở thành giá trị truyền thống của người Việt Nam.
Bài Những nhân tố chủ yếu làm biến đổi Nho giáo ở Việt Nam của
Phan Mạnh Toàn [162] đã khái quát sự biến đổi của Nho giáo ở Việt Nam bị
chi phối bởi ba nhân tố chủ yếu. Một là, thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam. Hai là, truyền bá vào Việt Nam bên cạnh Nho
giáo còn có Phật giáo, Lão giáo, Đạo giáo... Giữa chúng có sự giao thoa và tác
động đến tư tưởng, quan niệm nhân sinh của người Việt. Ba là, trong quá
trình Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam, đối tượng chịu ảnh hưởng sâu
sắc nhất là những nhà Nho. Họ ít nhiều được học những câu chữ của các
thánh hiền đạo Nho. Họ có thể tiếp thu, giải thích và tận dụng Nho giáo theo
những cách, những chiều hướng khác nhau tuỳ theo địa vị xã hội, lập trường
chính trị, khả năng nhận thức cũng như đặc điểm riêng của cá nhân mình và nhu
cầu cuộc sống.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về thuyết tam tòng, tứ đức
Nguyễn Xuân Diện trong Tổng quan tài liệu Nho giáo và Nho học đã
khảo sát, đánh giá về trữ lượng, giá trị Nho học và kết luận: các tư liệu viết
bằng chữ Hán Nôm là quan trọng bậc nhất, vì chúng được biên soạn ngay
trong thời kỳ Nho giáo còn thịnh và là các cứ liệu trực tiếp nhất về Nho học
trong lịch sử. Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 61 tên tài liệu về gia đình
truyền thống, đấy là chưa kể đến 264 cuốn gia phả của các dòng họ. Trong số
tài liệu trên có tới 51 tên tài liệu về gia huấn. Về gia huấn, trên Tạp chí Hán



của Tây Sơn là tiêu biểu, bực tức trước những yêu cầu tự do và bình đẳng của
phụ nữ mà Hồ Xuân Hương nói lên bằng thơ, vua quan nhà Nguyễn ra sức
truyền bá chữ “trinh”. Một mặt họ sắc phong cho những người mà họ cho là


8

thủ tiết với chồng, mặt khác họ ra sức tuyên truyền sự nhẫn nhục của người
vợ. Nguyễn Hàn Minh chủ trương người vợ bị chồng ruồng bỏ thì không nên
trách chồng mà nên “trinh nhất” với chồng để được tiếng khen là có nết quý.
Nguyễn Văn Siêu thì kêu gọi “đã bước lên cửa nhà chồng, sống chết không
dám khác”. Nguyễn Đức Đạt thì quả quyết: “làm vợ lẽ không gặp vợ cả hung
bạo thì không tỏ được đức hiền” [Dẫn theo 135, tr.515].
Bài viết Vị trí của Nho giáo thời kỳ cực thịnh của chế độ phong kiến
Việt Nam của Nguyễn Đức Sự, lý giải về cơ sở giúp cho Nho giáo chiếm được
vị trí độc tôn, các phạm trù đạo đức Nho giáo thâm nhập vào đời sống, con
người trong thời kỳ thịnh trị của chế độ phong kiến Việt Nam. Tác giả cho
rằng: “nền sản xuất nhỏ tiểu nông đã tương đối phát triển ở nước ta hồi thế kỷ
XIV và XV trở thành cơ sở xã hội để cho Nho giáo dễ dàng thâm nhập vào
đời sống. Bởi vì Nho giáo với các khái niệm hiếu, đễ, tiết, hạnh đã góp phần
củng cố uy quyền của người gia trưởng và tôn ty trật tự trong gia đình” [135,
tr.424]. Về sự tuyên truyền và phổ biến đạo đức Nho giáo thời kỳ này tác giả
khẳng định, triều đình phong kiến và cả một đội ngũ quan liêu nho sĩ đã tìm
cách làm cho Nho giáo thâm nhập vào trong quần chúng bằng giáo dục và
pháp luật, bằng khen thưởng và trừng phạt. Nhà vua đã ban ra không biết là
bao nhiêu những hứa điều, những bài cáo dụ và những quy định về nghi lễ để
phổ biến Nho giáo vào tận thôn xóm. Các xã trưởng phải có trách nhiệm
giảng dạy những lời cáo và những điều huấn ấy ở những nơi đình đám công
sở cho nhân dân thấm nhuần những lễ giáo phong kiến. Đối với những người
con hiếu đễ, người vợ goá ở vậy thờ chồng và hầu hạ cha mẹ chồng cho đến

cao. Bên cạnh đó, cuốn sách này cũng chỉ ra rằng, nếu như tình cảm vợ chồng
là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng gia đình hạnh phúc thì Nho giáo lại đặt
chữ “hiếu đễ” trên chữ “tình” (vợ chồng), thực chất là coi nhẹ yếu tố cơ bản để
xây dựng hạnh phúc [tr.149].
Cuốn Một số vấn đề Nho giáo ở Việt Nam của Phan Đại Doãn (chủ
biên) [33] là tác phẩm trình bày khá đầy đủ quan niệm của Nho giáo về vị trí,
vai trò và đạo đức của người phụ nữ, sự ảnh hưởng của các quan niệm đó đối
với người phụ nữ Việt Nam. Cuốn sách này chỉ ra các điều luật của các triều
đại phong kiến Việt Nam đối với người phụ nữ trên tinh thần bị ảnh hưởng
của tư tưởng “trọng nam khinh nữ” trong Nho giáo. Tác giả cũng đưa ra nhiều
nhận xét, đánh giá đáng lưu ý. Đó là địa vị của người phụ nữ Việt Nam cao
hơn so với phụ nữ Trung Quốc và tính gia trưởng trong gia đình Việt Nam
không cực đoan như tính gia trưởng của gia đình Trung Quốc mà nguyên


10

nhân sâu xa của nó là gia đình Việt Nam nhỏ và gia đình Trung Quốc là gia
đình lớn. Tác giả đã mượn lời của nhà nghiên cứu Nhật Bản là Insun Yu để lý
giải điều này.
Đặc biệt, tác giả còn chỉ ra sự ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức
thông qua các bài Gia huấn và Hương ước được truyền tụng trong đời sống
xã hội Việt Nam để cho thấy rõ mức độ ảnh hưởng sâu đậm của những tư
tưởng này đối với người dân Việt Nam. Tuy nhiên, thuyết tam tòng, tứ đức
của Nho giáo khi vào Việt Nam đã bị khúc xạ để phù hợp với đặc trưng riêng
của người Việt Nam.
Cuốn Nho giáo ở Việt Nam - Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam
[174] là tổng hợp các bài báo cáo của Hội thảo quốc tế Nho giáo ở Việt Nam
của các nhà nghiên cứu Việt Nam, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan... Cuốn sách
có ba phần chính: quá trình du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam;

đối với lịch sử của dân tộc và ảnh hưởng nhiều mặt đối với văn hóa Việt Nam.
Bài viết Nho giáo với gia đình Việt Nam truyền thống của Tú Hoan [57]
có những đánh giá sắc sảo về vai trò, vị trí của người phụ nữ Việt Nam trong
gia đình truyền thống. Gia đình là một phạm trù lớn trong Nho giáo với tư
cách là một hệ tư tưởng triết học. Trong Ngữ luân: “Vua - Tôi, Cha - Con,
Chồng - Vợ, Anh - Em, Bạn bè” thì có đến hai cương nói về gia đình, trong
ngũ luân: “quân thần, phụ tử, huynh đệ, phu thê, bằng hữu” có đến ba luân nói
về gia đình. Có lẽ cũng bởi vì Nho giáo là một học thuyết chính trị nên Nho
giáo coi gia đình như là một quốc gia thu nhỏ và để điều hành được đất nước
trước hết phải điều khiển được gia đình (Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ). Những
mối quan hệ gia đình phức tạp này cứ dai dẳng đeo bám người phụ nữ, khổ lắm,
nhưng vẫn cắn răng chịu đựng cũng bởi tam tòng. Sống trên cương vị người vợ,
người con dâu, người phụ nữ càng phải uốn mình để đạt tứ đức. Nhưng dù thế
nào, vai trò của người phụ nữ trong gia đình Việt Nam truyền thống cũng vẫn rất
quan trọng. Vị trí và thân phận của người phụ nữ không quá thấp và bị coi rẻ như
phụ nữ trong luân lý Nho giáo hoặc phụ nữ trong các mô hình gia đình ở các
quốc gia chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của Nho giáo. Đây có thể nói là một
sự tiến bộ về văn hóa, một sự tiếp thu có chọn lọc trên cơ sở có sự hòa hợp với
các yếu tố văn hóa bản địa của người Việt Nam chúng ta. Đây là cái tài của
người Việt Nam trong việc “bán địa hóa” văn hóa bên ngoài.
Nhìn chung các công trình trên đã phân tích những nội dung cơ bản của
đạo đức Nho giáo, làm sáng tỏ nội dung của thuyết tam tòng, tứ đức và một số
ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam xưa và nay.


12

1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT
TAM TÒNG, TỨ ĐỨC TRONG NHO GIÁO ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT
NAM HIỆN NAY


13

trưng của đạo đức phong kiến. Tuy tư tưởng khinh thường phụ nữ đã xuất
hiện từ chế độ phụ quyền gia trưởng và có lịch sử kéo dài nhưng chỉ có dưới
chế độ phong kiến thì nó mới phát triển đến đỉnh cao” [189, tr.93-94]. Theo
tác giả, người phụ nữ là đối tượng bị áp bức, bóc lột nhiều nhất dưới chế độ
phong kiến “người phụ nữ phải chịu thêm thân phận nô lệ, bị coi như một thứ
tài sản có thể chuyển nhượng, cầm cố. Chức năng đáng giá nhất của họ là sinh
con, mà phải sinh con trai để nối dõi tông đường của gia tộc” [189, tr.94].
Người phụ nữ bị bó buộc trong thuyết tam tòng, tứ đức. Đặc biệt trong tứ đức,
tác giả chỉ ra rằng, người phụ nữ phải chịu gò mình theo đức hạnh, họ sống
trong sự giam cầm của việc giữ gìn trinh tiết. Tư tưởng này đã giam hãm,
ngăn cản người phụ nữ đấu tranh giành lấy hạnh phúc chân chính của mình.
Tất cả những quan niệm cực đoan trên của Nho giáo về người phụ nữ trong
thời trước đã có ảnh hưởng đối với suy nghĩ, tư tưởng của người phụ nữ hiện
nay. Vấn đề mà tác giả đưa ra là các giải pháp khắc phục tình trạng trên để
nâng cao vị trí, vai trò của người phụ nữ hiện nay.
Bài viết Ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam của
Nguyễn Đức Quỳ cho rằng, tư tưởng Nho giáo có ảnh hưởng vô cùng mạnh
mẽ tới đời sống tinh thần của người Việt Nam. Những chuẩn mực về đạo đức
như tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức đều là những khuôn phép vô
cùng nghiệt ngã đối với những ai không theo những chuẩn mực ấy, đặc biệt
đối với người phụ nữ. Ngày nay, ảnh hưởng mặt trái của đạo đức Nho giáo
vẫn còn dai dẳng trong đời sống nhân dân, ở mọi tầng lớp, lứa tuổi. Nó tác
động tiêu cực đến suy nghĩ và hành động của một bộ phận người trong xã hội
thể hiện trên những phương diện như nếp sống không thật sự dân chủ, đánh
giá con người không đúng tiêu chuẩn, coi thường phụ nữ [Dẫn theo 135].
Trong Hương ước cổ làng xã đồng bằng Bắc Bộ, Vũ Duy Mền [93] đề
cập tới sự ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo và vai trò của hương ước đối với

viên chính thức đại biểu cho quyền thừa kế, thừa tự, và chỉ có người cha mới
có quyền cao nhất trong quản lý gia đình. Bởi thế, con cái phải có trách
nhiệm vâng lời, nuôi dưỡng, hiếu thảo cha mẹ, ông bà. Các quan hệ gia đình
này mở rộng ra dòng họ, chỉ có nam giới mới được vào giáp, được ra đình
trung, được chia ruộng và chịu nghĩa vụ nhà nước.
Bài Nho giáo và văn hóa ứng xử của người Việt bình dân trong quan hệ
hôn nhân và gia đình của Nguyễn Thị Kim Loan [84] đưa ra quan niệm của
Nho giáo về quan hệ vợ chồng, chuyện dựng vợ gả chồng là do cha mẹ toàn
quyền quyết định nên hôn nhân “chỉ là việc hoàn thành một nghĩa vụ cao cả


15

nhất đối với gia tộc là sinh con nối dõi tông đường”; “mất vợ còn có thể lấy
vợ khác, thậm chí nhiều vợ khác, chứ mất anh em thì lấy gì để thay thế”.
Người phụ nữ trong Nho giáo có một vị trí thật thấp bé và phụ thuộc. Khổng
Tử nói: “Đàn bà thì núp theo chồng, cho nên không được phép quyết định
việc gì. Có ba điều phải theo: ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng
chết theo con, không dám theo ý riêng mình”. Tuy nhiên, trong bài viết này,
tác giả cũng khẳng định rằng lối ứng xử như vậy của Nho giáo trong quan hệ
vợ chồng thật xa lạ với người Việt bình dân và đưa ra nguyên nhân là Nho
giáo vào Việt Nam đã bị khúc xạ để hợp với văn hóa người Việt.
Bài Sự truyền bá, phát triển và biến đổi của tư tưởng Nho giáo ở Việt
Nam của Tôn Diễn Phong [117] đăng trên tạp chí Hán Nôm đã chỉ ra ba điểm
khác biệt căn bản giữa ảnh hưởng thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ
nữ Việt Nam với người phụ nữ Trung Quốc. Một là, tác dụng của phụ nữ Việt
Nam không đóng khung trong nội bộ gia đình. Họ có thể tham gia một số hoạt
động kinh tế xã hội và sản xuất kinh doanh như mở hiệu buôn, mở hàng ăn,
làm xưởng gia công... Việc chợ búa, buôn bán phần nhiều do phụ nữ đảm
nhiệm. Trong sản xuất nông nghiệp, các gia đình không thể thiếu phụ nữ

hiện nguyện vọng sâu xa nhất của mỗi người phụ nữ Việt Nam từ bao nhiêu
đời nay mong ước. Đó là tiền đồ vinh quang nhất của mỗi cán bộ phụ nữ.1,
An tâm công tác, trung thành với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự
nghiệp giải phóng phụ nữ. 2, Tích cực làm tốt công tác phụ nữ, dù ở trong
lĩnh vực công tác nào cũng không nên tách rời công tác phụ nữ. 3, Ra sức học
tập, nâng cao tinh thần phê bình, tự phê bình, đảm bảo đoàn kết nội bộ.
Nguyễn Thị Thọ trong Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay
[151] đã chỉ ra những nhân tố quy định và những chuẩn mực căn bản của đạo
đức gia đình Việt Nam. Tất cả các yếu tố và đặc điểm này đều có sự tác động
bởi quan điểm đạo đức của Nho giáo. Tác giả cũng trình bày những tác động
tiêu cực của kinh tế thị trường, của tư tưởng đạo đức Nho giáo đối với đạo đức
gia đình. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp để khắc phục tình trạng trên và xây
dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay.
Gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong giai đoạn hiện
nay của Dương Thị Minh [94], trong đó, tác giả chỉ ra cụ thể các chức năng
của người phụ nữ trong gia đình và xã hội là tái sản xuất ra con người của gia
đình; giáo dục gia đình, thực hiện chức năng kinh tế; chức năng thoả mãn nhu
cầu tâm lý, tình cảm trong gia đình; chức năng xây dựng gia đình ấm no, bình


17

đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những mặt hạn
chế của người phụ nữ Việt Nam hiện nay: lực lượng tham gia chính trị xã hội
còn thấp, số ít phụ nữ là chủ hộ gia đình, vẫn còn nhiều tình trạng bạo lực gia
đình... Tất cả ảnh hưởng đến vị trí, vai trò của người phụ nữ ngày nay.
Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước của Đỗ Thị Bình - Lê Ngọc Văn - Nguyễn Linh Khiếu [9].
Ở công trình này, các tác giả đã thực hiện rất nhiều các cuộc khảo sát và điều tra
xã hội học về vai trò của người phụ nữ với những số liệu cụ thể. Thông qua các

không có phụ nữ yêu nước thì nước ấy sẽ làm đầy tớ cho người ta thôi”. Khác
với các nhà tư tưởng cùng thời vào đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu đã phê
phán thuyết tam cương, tam tòng - cho rằng đó là rào cản ngăn chặn sự phát
triển tiến bộ của người phụ nữ. Phan Bội Châu phê phán những người phụ nữ
học đòi văn hóa Tây học lai căng, sống theo ý thích cá nhân của mình, thích
chơi thể thao, từ chối nội trợ... đi ngược lại với phẩm chất truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam. Ông phê phán phong trào đòi nữ quyền giả tạo.
Ông đề cao việc vận động phụ nữ làm cách mạng, phụ nữ tham gia
công tác xã hội. Phan Bội Châu cho rằng: “Phụ nữ vận động là một việc cần
thiết trong xã hội đời bây giờ” [24] và muốn bắt tay vào việc vận động phụ nữ
trước hết phải nhận thức được vai trò của phụ nữ trong xã hội, trong quốc gia,
trong loài người. Chủ trương vận động phụ nữ của Phan Bội Châu gồm 4 nội
dung: 1. Mở mang về đường trí thức của phụ nữ; 2. Liên kết đoàn thể phụ nữ;
3. Chấn hưng chức nghiệp của phụ nữ; 4. Nâng cao địa vị của phụ nữ”. Trong
4 nội dung trên theo Phan Bội Châu quan trọng nhất là việc nâng cao trình độ
trí thức cho phụ nữ vì chỉ có trên cơ sở nâng cao trình độ trí thức cho phụ nữ
mới có thể thực hiện nâng cao địa vị phụ nữ.
1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH
HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ
NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY

Tuyên truyền giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Đề án 343 [15], Bộ giáo dục và
đào tạo xác định: Những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam
cần giữ gìn, phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đó là phẩm chất yêu nước; Ý thức trách nhiệm đối với gia đình và xã
hội; Ý thức tiếp thu tri thức, làm chủ khoa học, công nghệ và kỹ năng nghề
nghiệp; Tinh thần năng động, sáng tạo và ý chí vươn lên trong cuộc sống;


của Bùi Nhật Hương [60] đã đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống thuyết
tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Trung Quốc và Việt Nam. Phân tích
những nhân tố tác động đến sự ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức với
đạo đức người phụ nữ ở đồng bằng Sông Hồng. Đặc biệt, luận văn chỉ ra


20

thực trạng ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức đối với đạo đức người
phụ nữ ở đồng bằng sông Hồng. Và đưa ra ba phương hướng và bốn giải
pháp cơ bản nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực; hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đến việc xây dựng đạo đức mới cho
người phụ nữ đồng bằng sông Hồng hiện nay.
Ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam
xưa và nay - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường - Đại học Sư phạm của
Hoàng Thị Thuận [154] đã có những đánh giá sâu sắc về ảnh hưởng của
thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam xưa và nay. Trên cơ
sở đó tác giả đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm phát huy ảnh hưởng tích
cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức: phát huy
bình đẳng giới; xoá bỏ những hủ tục lạc hậu, phản tiến bộ do tàn dư của
thuyết tam tòng, tứ đức để lại; đổi mới chính sách xã hội đối với phụ nữ;
phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
Tiểu kết chương 1
Những nội dung các công trình nghiên cứu đã đạt được:
Thứ nhất, các công trình đã khái quát quá trình hình thành, phát triển
qua các giai đoạn phát triển chủ yếu: Nho giáo Xuân Thu; Nho giáo thời
Lưỡng Hán; Nho giáo thời Tam quốc; Nho giáo thời Thanh. Và đặc biệt là
Nho giáo ở Việt Nam.
Thứ hai, các công trình đã làm rõ những phạm trù, nguyên lý cơ bản
của Nho giáo. Trong đó, các tác giả đặc biệt đề cao những giá trị của Nho

Và đưa ra các giải pháp khắc phục tình trạng trên để nâng cao vị trí, vai trò
của người phụ nữ hiện nay.
- Điểm khác biệt căn bản giữa ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức
đối với người phụ nữ Việt Nam và người phụ nữ Trung Quốc.
Thứ tám, các công trình còn nghiên cứu về người phụ nữ Việt Nam hiện
đại dưới các góc độ:
- Xác định rõ nhiệm vụ phụ nữ trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
và sự nghiệp giải phóng triệt để cho phụ nữ.
- Nghiên cứu tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, của tư tưởng đạo
đức của Nho giáo đối với đạo đức gia đình, đạo đức phụ nữ Việt Nam ngày nay.
Thứ chín, các công trình nghiên cứu đã đưa ra một số quan điểm và giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.


Trích đoạn NHỮNG NHÂN TỐ LÀM BIẾN ĐỔI SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT Mõu thuẫn giữa yờu cầu phỏt huy giỏ trị của thuyết tam tũng, tứ đức với những tỏc động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và hội nhập Mõu thuẫn giữa những quan niệm bảo thủ, lạc hậu của thuyết tam tũng, tứ đức với những quan điểm tiờn tiến trong việc xõy ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY Phỏt triển kinh tế, văn húa, xó hội, đẩy mạnh đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người phụ nữ Việt Nam hiện nay
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status