Những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn tại CN Bà Chiểu NHSGCT - Pdf 30

GVHD: TS. Huỳnh Đinh Thái Linh - 1 -
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kỳ biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, thời kỳ đẩy
mạnh CNH – HĐH đất nước, đưa đất nước thoát khái tình trạng kém phát triển và
nâng cao chất lượng cuộc sống. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương “phát huy nội
lực bên trong, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn vốn nước ngoài
giữ vai trò quan trọng”. Đồng thời, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế
đang diễn ra hết sức sôi động. Điều đó đồng nghĩa với sự cạnh tranh đã, đang và sẽ
diễn ra ngày càng khốc liệt trong toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng
nói riêng. Chính vì vậy, việc khai thông nguồn vốn đối hoạt động huy động vốn của
các NHTM nói chung được đặt ra rất bức thiết. Các Ngân hàng hiện nay hoạt động
đòi hỏi phải có hiệu quả cao, vấn đề huy động vốn không chỉ được quan tâm “từ
đâu?” mà phải được tính đến “như thế nào?”, “bằng cách nào?” để có hiệu quả cao
nhất, đáp ứng nhu cầu cho vay của Ngân hàng nhưng lại đòi hỏi chi phí thấp nhất.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác huy động vốn trong hoạt động của
Ngân hàng. Với những kiến thức đã học và qua thực tế tại CN Bà Chiểu NHSGCT,
tôi xin mạnh dạn chọn đề tài “Công tác huy động vốn tại CN Bà Chiểu NHSGCT.
Thực trạng và giải pháp”.
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề được
trình bày theo 3 chương.
Chương I : những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn của CN Bà Chiểu NHSGCT.
Chương III: Những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác huy
động vốn tại CN Bà Chiểu NHSGCT.
Do thời gian nghiên cứu cũng như thực tế không nhiều, bài chuyên đề của tôi
còn nhiều điểm chưa đề cập đến và cón có những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận
được sự góp ý của các thầy, cô giáo cùng các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo, cô giáo, cán bộ hướng dẫn khóa luận
cùng toàn thể các anh chị trong CN Bà Chiểu NHSGCT tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong thời gian thực tập và nghiên cứu viết chuyên đề. Đặc biệt tôi xin chân thành

chất, đó là: việc nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp
vụ cho vay, đầu tư và các dịch vụ kinh doanh khác cảu chính ngân hàng.
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
Từ khái niệm về NHTM nêu trên áp dụng vào thực tế nước ta, một nước có
hơn 80% dân số sống bằng nghề nông, việc phát triển sản xuất theo chiều hướng
CNH – HĐH rất cần đến NHTM với vai trò to lớn của nó. Nhất là khi quá trình CNH
– HĐH của chúng ta đã đi vào chiều sâu, yêu cầu cần có vốn để xây dựng cơ sở hạ
tầng, tăng tốc dầu tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhịp độ tăng
SVTT: Mai Diệp Ái Linh
GVHD: TS. Huỳnh Đinh Thái Linh - 3 -
trưởng kinh tế nhanh và lâu bền, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tể
năm thì vai trò của các NHTM càng được Đảng và Nhà nước ta coi trọng.
a. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp
và các tổ chức trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc
dân, có mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa với việc mở
rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền
kinh tế. Điều đó muốn làm được lại cần có vốn. Vốn được coi như nguồn “thức ăn”
chính thức chong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Khi “thức
ăn” bị thiếu, doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội đầu tư mới hoặc không tiến hành kịp thời
quá trình tái sản xuất.
NHTM chính là người đứng ra tiến hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi
tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế… Thông qua hình thức cấp tín dụng, ngân
hàng đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất, cải tiến máy
móc, thiết bị, đổi mới quá trình công nghệ, nâng cao năng suất lao động đem lại hiệu
quả kinh tế, cũng có nghĩa là đưa doanh nghiệp lên những nấc thang cạnh tranh cao
hơn. Cạnh tranh càng mạnh mẽ, kinh tế càng phát triển. Như vậy với khả năng cung
cấp vốn, NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh
tế của quốc gia.
b. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, giúp cho các nhà kinh

con đường tín dụng. Khi xảy ra lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ tăng tỉ lệ vào dự
trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị trường mở để thông qua các
ngân hàng thương mại thay đổi lại lượng tiền trong lưu thông. Các Ngân hàng thường
mại sẽ kiểm soát lạm phát thông qua các hoạt động tín dụng, bảo lãnh. Từ đó ngân
hàng xác định được hướng đầu tư vốn và đề ra các biện pháp xử lý những tác động
xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế, làm cho quá trình tài sản xuất diễn ra liên tục, góp
phần điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
1.1.3. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM
a- Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn tự có của NHTM
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình tạo vốn của NHTM mà cụ thể là hình
thành nên nguồn vốn của NHTM. Nguồn vốn của NHTM bao gồm:
• Vốn tự có:
Vốn tự có là vốn riêng có của NHTM. Vốn này tuy chiếm tỉ trọng nhỏ trong
tổng vốn của NHTM song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân
hàng. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như là tài sản đảm bảo gây
lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng
thua lỗ. Vốn tự có cũng là căn cứ để tính toán các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt
động ngân hàng.
Trong thực tế, vốn tự có không ngừng tăng lên từ kết quả hoạt động kinh
doanh của bản thân ngân hàng thương mại. Bộ phận vốn này đóng góp một phần
đáng kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM, đồng thời góp phần vào
nâng cao vị thế của NHTM trên thương trường.
Như vậy, vốn tự có là vốn ổn định, ngân hàng sử dụng một cách chủ động. Do
đó vấn đề đặt ra là ngân hàng phải bảo toàn và không ngừng tăng vốn tự có của minh
theo yêu cầu của sự phát triển hoạt động kinh doanh theo đóng chính sách, chế độ.
Đồng thời phải sử dụng vào các mục đích đã định.
* Nghiệp vụ huy động vốn:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các
TCKT và cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh
doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.

b- Nghiệp vụ tài sản có:
Là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm đảm bảo
an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM. Nội dung nguồn vốn này gồm:
* Nghiệp vụ ngân quỹ:
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản về dự trữ của ngân hàng nhằm đảm bảo an
toàn trong thanh toán và thực hiện qui định về dự trữ bắt buộc do NHTU đề ra. Vì
trong những chức năng của NHTM là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả. Khoản dự trữ này do NHNN qui định theo một tỷ lệ nhất định trên tổng tiền
SVTT: Mai Diệp Ái Linh
GVHD: TS. Huỳnh Đinh Thái Linh - 6 -
gửi. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc này thay đổi theo từng thời kỳ nhằm thực hiện các mục
tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
Những khoản này gồm: tiền mặt quỹ, tiền gửi tại NHNN (dự trữ bắt buộc và
tiền gửi đảm bảo khả năng thanh toán), các chứng khoán có tính thanh khoản cao.
* Nghiệp vụ cho vay
Là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu và tạo khả năng sinh lời cao cho ngân hàng.
Trong tổng tài sản có thì nghiệp vụ này chiến tỷ trọng lớn nhất.
Nghiệp vụ cho vay bao gồm các khoản sinh lời thông qua cho vay ngắn hạn,
trung và dài hạn:
- Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay nhằm giải quyết thiếu hụt vốn tạm
thời trong kinh doanh của khách hàng. Cho vay ngắn hạn chủ yếu đầu tư vào tài sản
lưu động. Ở Việt Nam hiện nay thường cho vay ngắn hân theo hai phương thức:
+ Cho vay theo hạn mức: áp dụng cho những khách hàng vay trả thường
xuyên có vòng quay vốn nhanh.
+ Cho vay từng lần: áp dụng cho những hành khách vay trả thường xuyên và
có vòng quay vốn chậm.
- Cho vay trung – dài hạn: là hình thức cho vay mà tiền vay được cấu tạo
vào tài sản số định. Đây là loại cho vay cố thể trực tiếp bằng tiền hoặc cho vay thông qua
tài sản – nghiệp vụ cho thuê tài chính.
Hoạt động cho vay mang lại lợi nhuận cơ bản cho ngân hàng, nhưng đồng thời

tiết ngoại tệ…
Những tài sản phản ánh trên các tái khoản này đều phải được tiến hành kiểm
kê, bảo quản như với tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.
1.2. Vốn huy động và công tác huy động vốn trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm về vốn.
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương
mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ
kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của ngân hàng thương mại, quyết
định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng bao gồm:
- Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được,
thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó mang tính ổn định và căn cứ để quyết định đến khả
năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng.
- Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các
tổ chức kinh tể và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để kinh doanh. Vốn
huy động là tài sản thuộc về các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử
dụng và phải hoàn trả đóng gốc và lãi khi đến hạn. Nguồn vốn này luôn biến động,
tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động của ngân hàng.
- Vốn đi vay là phấn vốn các Ngân hàng đi vay để bổ sung vào vốn hoạt
động của mình trong trường hợp tạm thiếu vốn khả dụng. Nó có chi phí tương đối
cao cho nên chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
- Vốn khác là vốn phát sinh trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ thanh
toán…
1.2.2. Vai trò của vốn huy động
SVTT: Mai Diệp Ái Linh
GVHD: TS. Huỳnh Đinh Thái Linh - 8 -
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh được thì phải có vốn
bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với
Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh kinh doanh một loại hàng hóa đặc biệt là
“tiền tệ” với đặc thù hoạt đông kinhdoanh là “đi vay để cho vay” nên nguồn vốn đối

a. Tiền gửi của khách hàng
Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của tổ chức kinh tế, doanh nghiệp cơ
quan Nhà nước và các định chế tài chính trung gian cùng cá nhân trong và ngoài
nước có quan hệ gửi tiền tại ngân hàng.
Tiền gửi của khách hàng được chia làm hai bộ phận: Tiền gửi của doanh
nghiệp, tổ chức kinh tể và tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
SVTT: Mai Diệp Ái Linh
GVHD: TS. Huỳnh Đinh Thái Linh - 9 -
+ Tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tể bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn.
Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và ngân hàng
phải thỏa mãn yêu cầu đó cảu khách hàng, thực chất đó là khoản tiền gửi dùng để
đảm bảo trong thanh toán.
Tiền gửi đảm bảo thanh toán được ký thác vào ngân hàng để thực hiện các
khoản chi trả khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng
một cách thuận tiện và tiết kiệm. Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi chờ thanh toán
mà không phải để dành. Bởi vậy đối với khách hàng đây là một tài sản mà họ ký thác
ủy nhiệm cho ngân hàng bảo quản và thực hiện các nghiệp vụ liên quan theo yêu cầu
của khách hàng.
Do vậy khách hàng không mất quyền sở hữu, cũng như quyền sử dụng số tiền
đó. Họ có quyền lấy ra hoặc chuyển nhượng cho bất kỳ ai và bất kỳ thời gian nào.
Khách hàng được sử dụng số tiền của mình bằng các phương tiện thanh toán dùng để
chi trả như séc, ủy nhiệm chi, thư chuyển tiền…
Đối với ngân hàng đây là khoản nợ mà ngân hàng có nghĩa vụ thực hiện lệnh
thanh toán chi trả cho người thụ hưởng loại tiền gửi này, lãi suất thường thấp hơn lãi
suất trả cho các khoản tiền gửi có lãi khác. Nhưng khi khách hàng mở và sử dụng các
loại tài khoản này thì được ngân hàng cung ứng các loại dịch vụ miễn phí hoặc thu
với tỷ lệ thấp, lương tiền vốn ở tài khoản thanh toán thường chiếm gần 1/3 tiền gửi
ngân hàng.
Như vậy các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn trong việc

dụng phần lớn số dư loại nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn. Nếu nguồn vốn
này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động sẽ tạo điều kiện thuận lợi, chủ
động của ngân hàng trong quá trình kinh doanh, các NHTM thường đưa ra nhiều loại
kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu tiền gửi của khách hàng. Hiện tại các NHTM có các
loại tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm. Với mỗi
một kỳ hạn khác nhau thì ngân hàng áp dụng một loại lãi suất khác nhau. Thông
thường thì thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
Các NHTM thường khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài, vì loại
tiền này tương đối ổn định, ngân hàng sẽ chủ động trong kinh doanh. Để thu hút
được nhiều nguồn vốn dài hạn thì tốc độ phát triển nền kinh tế phải ổn định, giá trị
đồng tiền được đảm bảo và tình hình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng có
hiệu quả.
+ Tiền gửi tiết kiệm dân cư:
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi vào ngân
hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định. Tiển gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập bằng
tiền gửi của cá nhân chưa sử dụng được gửi vào tổ chức tín dụng. Nó là một dạng đặc
biệt của tích lũy tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân. Khi gửi tiền người gửi tiền được giao
một sổ tiết kiệm coi như một giấy chứng nhận tiền gửi vào Ngân hàng. Đến thời hạn
khách hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền gửi tích kiệm.
Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Loại tiền gửi ngày người gửi tiền có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ số tiền
gửi bất kỳ lúc nào. Nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người gửi tiền không
được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác, lãi suất tiền gửi tiết
kiệm thường cao hơn và phần lớn những người gửi tiền tiết kiệm là do chưa xác định
được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai, nhưng lại hưởng mức lãi trong thời gian
khoản tiền nhàn rồi.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Khi cá nhân gửi tiền vào ngân hàng loại tiền gửi tích kiệm có kỳ hạn trên cơ
sở thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi, lãi suất theo qui định và

nhằm huy động vốn trong dân cư một cách linh hoạt có tác dụng thu hút các nguồn
tiền nhàn rỗi vào ngân hàng, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị của đồng
tiền, tạo nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế.
* Phát hành trái phiếu.
Trái phiếu ngân hàng thực chất là giấy chứng nhận nợ có kỳ hạn của ngân
hàng đối với những người mua trái phiếu (nhà đầu tư). Trái phiếu được các NHTM
hay các tổ chức tín dụng phát hành nhằm huy động vốn cho chính bản thân ngân hàng
hoặc các tổ chức tín dụng có liên quan. Thời hạn của trái phiếu thường lớn hơn một
năm. Lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi suất cảu tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu.
Các NHTM phát hành trái phiếu trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn thông qua các dự án
đầu tư của các doanh nghiệp mà ngân hàng cam kết cho vay.
SVTT: Mai Diệp Ái Linh
GVHD: TS. Huỳnh Đinh Thái Linh - 12 -
Huy dộng vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ của các NHTM như
kỳ phiếu, trái phiếu là một hình thức mới trong tác huy động vốn của NHTM ở các
nước đang phát triển. Vốn được huy động từ hình thức này dùng để đầu tư cho các
dự án trung và dài hạn.
Ở nước ta hình thức này được Ngân hàng sử dụng từ năm 1992. Nhưng cho
đến nay khối lượng vốn huy động cảu NHTM qua hình thức này vẫn còn thấp so với
các hình thức huy động vốn truyền thống khác. Để phát huy được thế mạnh của công
cụ hay huy động vốn này đòi hỏi phải có thị trường vốn hoàn chỉnh (thị trường chứng
khoán). Ở nước ta thị trường này mới được thành lập cho nên hoạt động của nó chưa
ảnh hưởng nhiều đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
c. Vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác và ngân hàng Trung ương.
Khi các NHTM có sự mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn
xảy ra hiện tượng thiếu vốn đột xuất.
Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các tổ chức tính dụng vay vốn của
nhau qua thị trường liên ngân hàng. Thị trường này giúp cho NHTM bổ sung nguồn
vốn cho nhau, nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn tronh thanh toán. Hoạt động
của thị trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng sẵn có một cách

của nước ngoài vào Việt Nam. Các nguồn vốn này có đóng góp rất quan trọng vào
công cuộc đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi Ngân hàng Nhà
nước và NHTM phải tăng cường mở rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế, từ đó
tranh thủ và tiếp nhận các nguồn vốn này.
Trên đây là các hình thức huy động nguồn vốn chủ yếu của NHTM, tuy nhiên
chất lượng, hiệu quả của hoạt động huy động vốn chịu ảnh hưởng tác động rất nhiều
yếu tố, từ các yếu tố mang tính chất vĩ mô, đến các yếu tố mang tính chất vi mô của
nền kinh tế, cũng như các yếu tố liên quan tới chính NHTM.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn.
1.3.1. Các nhân tố khách quan.
a. Môi trường pháp lý
Nghiệp vụ huy động vốn của các NHTM chịu sự điều chỉnh rất lớn của môi
trường pháp lý. Có những Bộ Luật tác động trực tiếp mà chúng ta thường thấy như:
Luật các TCTD, Luật NHNN… Những Luật này qui định tỉ lệ huy động vốn của
ngân hàng so với vốn tự có, qui định về việc gửi và sử dụng tài khoản tiền gửi… Có
những Bộ Luật tác động gián tiếp đến hoạt động ngân hàng như Luật đầu tư nước
ngoài hoặc các NHTM không được nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng giảm
lãi suất, mà phải dựa vào lãi suất do NHNN đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên đột
nhất định mà NHNN cho phép…
Bên cạnh những bộ luật đó thì chính sách tài chính tiền tệ của một quốc gia
cũng ảnh hưởng rất lớn tới nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Nó được thể hiện ở mục
tiêu của chính sách tiền tệ, chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có
chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã
hội thì lúc đó NHTM huy động vốn dễ dàng hơn. Như vậy, môi trường pháp lí là
nhân tố khách quan có tác động rất lớn tới quá trình huy động vốn của NHTM. Mục
tiêu hoạt động của NHTM được xây dựng vào các qui định, qui chế của Nhà nước để
đảm bảo an toàn và nâng cao niềm tin từ khách hàng.
b. Môi trường kinh tế xã hội:
Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước cũng có tác động không nhỏ
đến quá trình huy động vốn của ngân hàng. Khi nền kinh tế tăng tưởng hay suy thoái

cầu của dân cư, vì họ đều tìm thấy cho mình một hình thức gửi tiền phù hợp mà lại an
toàn. Do vậy các NHTM thường cân nhắc rất kĩ lưỡng trước khi đưa vào áp dụng một
hình thức mới.
b. Chính sách lãi suất cạnh tranh:
Việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh ranh giữa các ngân hàng với nhau đã trở nên
cực kỳ quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì tiền gửi hiện
có. Điều nàu đặc biệt đóng khi lãi suất thị trường đã ở vào mức tương đối cao. Các
ngân hàng cạnh tranh giành vốn không chỉ với các ngân hàng khác mà còn với các tổ
chức tiết kiệm khác, các thị trường tiền tệ và với những người phát hành các công cụ
tài chính khác nhau trong thị trường tiền tệ. Khi lãi suất tối đa bị loại bỏ trong quá
trình nới lỏng các quy định, việc duy trì mức lãi suất cạnh tranh càng trở nên gay gắt.
Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, đủ cho những khác biệt tương đối nhỏ về
lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiền tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ ngân
hàng này sang ngân hàng khác hay từ công cụ này sang công cụ khác.
c. Năng lực và trình độ cán bộ ngân hàng
* Về phương diện quản lý, nếu ngân hàng có trình độ quản lí tốt sẽ có khả
năng tư vấn phù hợp cho khách hàng đem lại hiệu quả cao thì sẽ thu hút được khách
SVTT: Mai Diệp Ái Linh
GVHD: TS. Huỳnh Đinh Thái Linh - 15 -
hàng đến với mình. Mặt khác, quản lí tốt sẽ đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín,
tạo điều kiện tốt cho công tác huy động vốn của ngân hàng.
* Về trình độ nghiệp vụ: trình độ của cán bộ ngân hàng ảnh hưởng lớn tới
chất lượng phục vụ, chi phí dịch vụ làm ảnh hưởng tới việc thu hút vốn của ngân
hàng.
Hiện nay, ở nhiều Ngân hàng Việt Nam, trình độ nghiệp vụ của cán bộ có
nhiều bất cấp. Vì vậy, cần phải chú trọng vào việc nâng cao trình độ cho cán bộ sao
cho phù hợp với nhu cầu đòi hỏi của kinh tế thị trường.
d. Công nghệ ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng được thể hiện theo các yếu tố sau:
Thứ nhất: Các loại dịch vụ mà ngân hàng cung ứng

trong thời đại ngày nay. Trong hoạt động ngân hàng hiện đại, quảng cáo luôn được
đề cao và cần phải có một chi phí nhất định cho công tác này. Đồng thời ngân hàng
cũng phải có chiến lược quảng cáo đặc biệt không chỉ trên truyền hinh mà nên dùng
cả Pano, áp phích, tờ rơi nhằm đẩy mạnh công tác huy động vốn.
h. Mạng lưới phục vụ cho việc huy đổng vốn:
Mạng lưới huy động vốn của các ngân hàng thường biểu hiện qua việc tổ chức
các quĩ tiết kiệm. Mạng lưới huy động không chỉ được mở rộng tạo điều kiện thuận
lợi cho người gửi tiền, mà cần được mở ra ở cả những nơi cách xa trung tâm kinh tế
như nông thôn, vùng sâu, vùng xa để từ đó nâng cao được hiệu quả huy động vốn.
Trên đây là các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của các hệ
thống ngân hàng thường mại. Với mỗi ngân hàng trong những giai đoạn khác nhau,
mức độ ảnh hưởng của các nhân tố trên đến hoạt động huy động vốn cũng khác nhau.
Tùy thuộc vào tình hình cụ thể mà các ngân hàng có thể xây dựng cho mình một
chiến lược huy động thích hợp.
SVTT: Mai Diệp Ái Linh
GVHD: TS. Huỳnh Đinh Thái Linh - 17 -
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CN BÀ CHIỂU
NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN CÔNG THƯƠNG
2.1. Khái quát về CN Bà Chiểu-NH TMCP Sài Gòn Công Thương
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Quá trình hình thành CN Bà Chiểu-NH TMCP Sài Gòn Công Thương
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương có:
Tên giao dịch quốc tế:
SAIGON BANK FOR INDUSTRY AND TRADE
Tên gọi tắt: SAIGONBANK
Là Ngân Hàng thương Mại Cổ Phần Việt Nam đầu tiên được thành lập trong
hệ thống Ngân Hàng Cổ Phần tại Việt Nam hiện nay, ra đời ngày 16 tháng 10 năm
1987, trước khi có Luật Công Ty và Pháp lệnh Ngân Hàng với vốn điều lệ ban đầu là
100 tỷ đồng và thời gian họat động là 50 năm.

* Hoạt động kinh doanh phát triển mạnh đều trên tất cả các mặt nghiệp vụ,
áp dụng giao dịch tức thời trên máy tính tại tất cả điểm huy động vốn.
* Mở rộng mạng lưới kinh doanh, phát triển dịch vụ mới: năm 1998 đó mở
Phòng giao dịch Gò Vập và năm 2004 mở phòng giao dịch Hòa Hưng.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức CN Bà Chiểu-NH Sài Gòn Công Thương
Hiện nay, cơ cấu tổ chức của CN Bà Chiểu bao gồm: 1 giám đốc, 1 phú giám
đốc, 8 Phòng nghiệp vụ, 2 Phòng giao dịch. Nhiệm vụ chính của các Phòng ban như
sau:
* Phòng tổng hợp và tiếp thị:
- Huy động vốn bằng VND và ngoại tệ theo hướng dẫn của Tổng giám đốc, trực
tiếp điều hành lao động, tài sản tại quỹ tiết kiệm, đảm bảo an toàn tài sản, tiền bạc của cơ
quan, Nhà nước theo đóng chế độ .
- Tổng hợp, phân tích báo cáo mọi tình hình hoạt động của CN Bà Chiểu
theo yêu cầu của giám đốc CN Bà Chiểu, giám đốc NHNN trên địa bàn, tổng giám
đốc NHSGCT.
* Phòng tín dụng: với nhiệm vụ chính sau:
- Thực hiện cho vay, thu nợ ( ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) bằng VND và
ngoại tệ với các tổ chức kinh tế, cá nhân theo đóng cơ chế tín dụng của NHNN và
hướng dẫn của Tổng giám đốc.
- Nghiên cứu đề xuất các biện pháp giải quyết vướng mắc trong hoạt động
kinh doanh tại CN Bà Chiểu, phản ánh kịp thời những vấn đề nghiệp vụ mới phát
sinh để báo cáo tổng giám đốc xem xột, giải quyết.
- Phân tích hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn, cung cấp kịp
thời chất lượng các báo cáo, thông tin về công tác tín dụng cho lãnh đạo.
* Phòng kế toán:
- Thực hiện mở tài khoản giao dịch với khách hàng, hạch toán chính xác,
kịp thời mọi biến động về vốn, tài sản của khách hàng và ngân hàng.
SVTT: Mai Diệp Ái Linh

Trích đoạn Thực hiện tốt chớnh sỏch khỏch hàngvà chiến lược marketing: Hạn chế rủi ro, nõng cao hiệu quả trong kinh doanh. Tăng cường cụng tỏc thụng tin, quảng cỏo. Kiến nghị với NHNN VN
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status