các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở huyện lấp vò tỉnh đồng tháp - Pdf 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGUYỄN MINH TRIẾT CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP
CỦA NÔNG HỘ Ở HUYỆN LẤP VÒ
TỈNH ĐỒNG THÁP
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP
CỦA NÔNG HỘ Ở HUYỆN LẤP VÒ
TỈNH ĐỒNG THÁP
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Quản trị kinh doanh thương mại
Mã số ngành:

52340121 CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PGS.TS LÊ KHƯƠNG NINH

11 - 2013

ii

LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả
nghiên cứu của tôi và các kết quả nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ
luận văn cùng cấp nào khác.
Cần Thơ, ngày … tháng … năm 2013
Người thực hiện Nguyễn Minh Triết
2.1.3.6 Diện tích đất 12
2.1.3.7 Vay vốn 12
2.1.3.8 Hoạt động phi nông nghiệp 13
2.1.3.9 Làm nghề thủ công 13
2.1.3.10 Khoảng cách đến trung tâm huyện, thị xã hoặc thành phố 13
2.1.3.11 Số người phụ thuộc 13
iv 2.1.4 Mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông
hộ huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp 14
2.1.5 Giả thuyết nghiên cứu 16
2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu 16
2.2.1.1 Số liệu thứ cấp 16
2.2.1.2 Số liệu sơ cấp 16
2.2.2 Phương pháp xử lý số liệu 17
Chương 3: KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 18
3.1 KHÁI QUÁT VỀ TỈNH ĐỒNG THÁP 18
3.1.1 Vị trí địa lí và các đơn vị hành chánh 18
3.1.2 Điều kiện tự nhiên 19
3.1.2.1 Đặc điểm địa hình 19
3.1.2.2 Khí hậu, thủy văn 19
3.1.2.3 Tài nguyên thiên nhiên 19
3.1.3 Dân số và mật độ dân cư 20
3.1.4 Kinh tế 20
3.1.4.1 Kinh tế nông nghiệp 20
3.1.4.2 Công nghiệp – Xây dựng 21
3.1.4.3 Thương mại – Dịch vụ 21
3.1.5 Tiềm năng phát triển 22

4.3.2 Thông tin nông hộ được hỗ trợ phục vụ sản xuất 42
4.3.3 Những rủi ro thường gặp 44
4.3.4 Thông tin về hoạt động vay vốn của nông hộ 45
4.4 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CỦA NÔNG HỘ 46
4.4.1 Tổng hợp các biến và kỳ vọng của các hệ số βi trong mô hình nghiên
cứu các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ huyện Lấp Vò, tỉnh
Đồng Tháp 46
4.4.2 Kết quả mô hình hồi quy xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thu
nhập của nông hộ huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp 47
Chương 5: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO THU
NHẬP CHO NÔNG HỘ HUYỆN LẤP VÒ TỈNH ĐỒNG THÁP 52
vi

5.1 CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 52
5.1.1 Những thuận lợi 52
5.1.2 Những khó khăn còn gặp phải 53
5.2 CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT 53
5.2.1 Giải pháp trên cơ sở kết quả mô hình hồi quy tuyến tính bội 54
5.2.2 Giải pháp khác trên cơ sở các phân tích thống kê mô tả 55
Chương 6: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 57
6.1 KẾT LUẬN 57
6.2 KIẾN NGHỊ 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
PHỤ LỤC 1: KẾT QUẢ XỬ LÝ MÔ HÌNH HỒI QUY ĐA BIẾN BẰNG
PHẦN MỀN SPSS 64
PHỤ LỤC 2: BẢNG CÂU HỎI PHỎNG VẤN NÔNG HỘ 66


Bảng 4.11: Mức độ ảnh hưởng của những thông tin nông hộ được hỗ
trợ đến kết quả sản xuất kinh doanh của gia đình 43
Bảng 4.12: Những rủi ro mà nông hộ thường gặp phải 44
Bảng 4.13: Thông tin về hoạt động vay vốn của nông hộ trong năm
2012 45
Bảng 4.14: Thông tin về hình thức thanh toán khi mua vật tư của nông
hộ năm 2012 46
Bảng 4.15: Hình thức mua chịu (trả chậm) vật tư của nông hộ năm
2012 46
viii

Bảng 4.16: Tổng hợp các biến độc lập trog mô hình hồi quy 47
Bảng 4.17: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính đa biến 48
Hình 4.7 Biểu đồ cơ cấu chi phí sản xuất nông nghiệp năm 2012 42

x

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

triển ở tầm cao mới. Tuy nhiên, tiêu chí số 10 về thu nhập trong bộ tiêu chí về
xây dựng nông thôn mới đã gây ra nhiều khó khăn cho quá trình thực hiện.
Theo đó, mức thu nhập bình quân đầu người/năm so với bình quân chung của
tỉnh ít nhất phải đạt 1,3 lần. Thực tế cho thấy, mức thu nhập bình quân đầu
người năm 2012 chỉ đạt 843 USD/người/năm thấp hơn so với mức thu nhập
bình quân của tỉnh là 967 USD/người/năm (Ban tuyên giáo tỉnh Đồng Tháp,
2012). Thực trạng đó là một thách thức cho huyện trong việc tìm giải pháp
nâng cao thu nhập cho nông hộ.
Trong “Báo cáo đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam - kết quả điều tra
hộ gia đình nông thôn năm 2012 tại 12 tỉnh” vừa được Viện Nghiên cứu quản
lý kinh tế Trung ương (CIEM) công bố thì thu nhập trung bình của hộ thuần
nông chỉ đạt 48.618 đồng/ngày, tức khoảng 1.458.000 đồng/tháng. Điều đáng
chú ý là trong số các hộ tham gia điều tra, có tới 50% hộ phải vay nợ, và chủ
yếu là vay ngoài với lãi suất cao (số tiền nợ từ vay ngân hàng chỉ chiếm hơn
13%), có đến 41,5% số hộ không hài lòng về cuộc sống (CIEM, 2013). Kết
quả đó phần nào phản ánh đời sống khó khăn và thu nhập còn rất thấp của hộ - 2 -

dân khu vực nông thôn Việt Nam nói chung cũng như những địa phương có
xuất phát điểm còn ở mức thấp như Lấp Vò.
Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn đó, việc phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến thu nhập của nông hộ trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa thiết thực
giúp lãnh đạo địa phương và nhân dân có những chính sách và giải pháp phù
hợp nhằm nâng cao thu nhập cho nông hộ, đưa kinh tế địa phương phát triển,
góp phần hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, đề tài
“Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở huyện Lấp Vò tỉnh
Đồng Tháp” là hết sức cần thiết.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU


CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 PHƯƠNG PHÁP LUẬN
2.1.1 Các khái niệm có liên quan
2.1.1.1 Khái niệm về nông hộ
Nông hộ được hiểu là những hộ nông dân làm nông nhiệp, lâm nghiệp,
ngư nghiệp. Nói chung là gia đình sống bằng nghề làm nông. Hộ là một đơn vị
kinh tế - xã hội tự chủ, cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng mà các đơn vị
kinh tế khác không thể có được. Các thành viên trong hộ gia đình có mối quan
hệ gắn bó về huyết thống cũng như về kinh tế, cùng chung sống trong một mái
nhà, cùng tiến hành sản xuất và có chung một nguồn thu nhập. Hộ nông dân là
đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp và phát triển nông
thôn, vì tất cả các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn chủ
yếu được thực hiện qua hoạt động của hộ nông dân (Đặng Thị Thảo Triều,
2010).
Hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là đơn vị sản xuất, vừa là đơn vị
tiêu dùng, vừa là đơn vị kinh doanh, vừa là một đơn vị xã hội. Nông hộ là hộ
gia đình có hoạt động sinh kế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp (Nguyễn
Văn Đông, 2012).
Nhiều học giả cũng đưa ra những khái niệm về nông hộ và kinh tế hộ:
 Theo Mc Gê (1989) thì: “Hộ” là một nhóm người có cùng chung huyết tộc
hoặc không cùng chung huyết tộc ở trong một mái nhà và ăn chung một
mâm cơm.
 Nhóm các học giả lý thuyết phát triển cho rằng: “Hộ là một hệ thống các
nguồn lực tạo thành một nhóm các chế độ kinh tế riêng nhưng lại có mối
quan hệ chặt chẽ và phục vụ hệ thống kinh tế lớn hơn”.
 Các tác giả Wallerstan (1982), Wood (1981, 1982), Smith (1985), Martin
và BellHel (1987)) cho rằng: “Hộ là một nhóm người có cùng chung sở
hữu, chung quyền lợi trong cùng một hoàn cảnh. Hộ là một đơn vị kinh tế

quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh mà hộ thực hiện.
Thu nhập của nông hộ là tổng thu nhập hằng năm của tất cả các thành
viên từ việc làm công, làm thuê, từ hoạt động sản xuất nông lâm thủy sản và
sản xuất kinh doanh ngành nghề và dịch vụ, chế biến, của hộ (Nguyễn Văn
Đông, 2012).
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hiệp Quốc (FAO) cho
rằng thu nhập của hộ gia đình nông dân trong sản xuất nông nghiệp “chính là
phần tiền thưởng cho người chủ sở hữu các yếu tố sản xuất cố định như đất
đai, nguồn vốn và nguồn lao động khi đưa các yếu tố này tham gia vào quá
trình sản xuất để tạo ra sản phẩm.
Michael P. Todaro (1998) cho rằng thu nhập của hộ gia đình nông dân là
số lượng hàng hóa và dịch vụ vật chất mà hộ gia đình nông dân có thể dùng
thu nhập bằng tiền của họ mua được, với thu nhập bằng tiền chỉ đơn giản là
tổng số tiền mà hộ gia đình kiếm được hàng tháng, năm (Phạm Ngọc Dưỡng,
2013).
Thu nhập của nông hộ có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau nhưng chủ
yếu được phân thành ba nhóm chính là:
 Thu nhập từ nông nghiệp: gồm thu nhập từ các hoạt động sản xuất nông
nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy hải sản. Đây là
nguồn thu nhập chủ yếu của nông dân.

1
Trường Cao đẳng NN&PTNT Bắc Bộ , 2007. - 5 -
 Thu nhập từ phi nông nghiệp: là thu nhập được tạo ra từ hoạt động công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp như chế biến, xây dựng, làm nghề
truyền thống, Ngoài ra, thu nhập từ phi nông nghiệp còn bao gồm các
hoạt động thương mại và du lịch, dịch vụ.

bước vào nền kinh tế thị trường với gần 80% dân số đang sinh sống ở nông
thôn với xuất phát điểm thấp, kinh tế hộ gia đình đang là một đơn vị sản xuất
phổ biến. Đây là mô hình kinh tế có vị trí quan trọng trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế vĩ mô, nhằm huy động mọi nguồn lực tiến hành sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiện nay, kinh tế hộ gia đình
không phải là một thành phần kinh tế, nhưng là một loại hình để phân biệt với

2
Trường Cao đẳng NN&PTNT Bắc Bộ, 2007.
3
Sở NN&PTNT Quảng Bình, 2008. - 6 -
các hình thức tổ chức kinh tế khác. Trong hoạt động kinh tế, gia đình có thể
tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tái sản xuất.

Kinh tế hộ gia
đình hiện đang phát triển và hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau như
nông nghiệp, vận tải, xây dựng, thương mại dịch vụ và các ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp, kinh doanh.
4

2.1.2 Lược khảo tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu
Chủ đề các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ trong thời gian
qua đã thu hút nhiều tác giả tham gia nghiên cứu. Các nghiên cứu đã sử dụng
nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá thu nhập của nông hộ trên nhiều
khía cạnh và ở những địa phương khác nhau:
Nhóm tác giả Trần Quế Anh, Nguyễn Quốc Nghi và Bùi Văn Trịnh
(2011) đã thực hiện nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ
- 7 -
Tác giả Mai Văn Nam và Huỳnh Thị Đan Xuân (2011) thực hiện đề tài
“Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của các hộ chăn nuôi gia cầm
ở Đồng bằng sông Cửu Long” nhằm mô tả thực trạng, cơ cấu thu nhập và xác
định các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ. Thông qua khảo sát
307 nông hộ và sử dụng các phương pháp phân tích lợi ích chi phí, thống kê
mô tả và phân tích hồi quy cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của
nông hộ là tổng diện tích đất của hộ, vay vốn, kiểm dịch, thu nhập từ chăn
nuôi gia cầm, thu nhập từ chăn nuôi khác và thu nhập từ phi nông nghiệp.
Nghiên cứu cũng cho thấy 95% thu nhập của nông hộ đến từ hoạt đông nông
nghiệp, các hộ cũng quan tâm đến việc đa dạng hóa nguồn thu nhập nhưng vẫn
chưa đạt hiệu quả cao.
Đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của tín dụng nhỏ đến thu nhập của nông
hộ tỉnh Hậu Giang” của tác giả Trương Đông Lộc và Đặng Thị Thảo đã cung
cấp cho tác giả nhiều thông tin hữu ích. Mục tiêu của nghiên cứu là đo lường
ảnh hưởng của tín dụng nhỏ đến thu nhập của nông hộ tỉnh Hậu Giang. Số liệu
của nghiên cứu được thu thập bằng bảng câu hỏi phỏng vấn 628 nông hộ.
Phương pháp phân tích trước - sau và hồi quy tuyến tính đa biến được dùng để
phân tích số liệu. Kết quả nghiên cứu cho thấy tín dụng nhỏ đã góp phần tăng
thu nhập cho hộ nghèo. Ngoài ra, các nhân tố về lượng vốn vay, trình độ học
vấn, số thành viên của hộ, diện tích đất, tham gia các khóa tập huấn về kỹ
thuật sản xuất nông nghiệp có tương quan thuận với thu nhập của nông hộ.
Nghiên cứu còn cho thấy hộ gia đình có chủ hộ là nam thì hiệu quả sử dụng
vốn vay thấp hơn so với chủ hộ là nữ.
Luận văn “Phân tích các yêu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ tại
xã Long Phước huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long” của tác giả Nguyễn Văn
Đông (2012) cung cấp cho tác giả nhiều thông tin về thực trạng thu nhập và
các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ. Tác giả sử dụng

xuất Cobb – Douglas để phân tích tác động của các nhân tố đến thu nhập của
các hộ nghiên cứu. Kết quả cho thấy, trình độ học vấn, tuổi, lao động, lượng
vốn vay, chi phí đầu vào, diện tích đất canh tác, thời hạn vay và lãi suất có tác
động tới thu nhập của nông hộ. Trong đó, lãi suất vay là yếu tố tác động ngược
chiều.
Đề tài “Thu nhập và giải pháp nâng cao thu nhập của nông hộ tham gia
hoạt động làng nghề ở tỉnh Bạc Liêu” của tác giả Mai Văn Nam (2012) để
đánh giá thực trạng thu nhập và xác định các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập
của nông hộ tham gia làng nghề ở Bạc Liêu. Các phương pháp thống kê mô tả,
phân tích lợi ích chi phí và hồi quy đa biến được sử dụng để phân tích số liệu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt động làng nghề giúp nông hộ nâng cao thu
nhập, giải quyết công ăn việc làm ở địa phương. Tuy nhiên, thiếu vốn, nguyên
liệu và trang thiết bị phục vụ làng nghề, đầu ra không ổn định, trình độ tay
nghề còn hạn chế đã gây ra những khó khăn nhất định cho hoạt động của làng
nghề và ảnh hưởng đến việc gia tăng thu nhập cho người nông dân.
Hoàng Thị Hồng Lộc và Lê Thị Diệu Hiền (2013) nghiên cứu “Các nhân
tố ảnh hưởng đến thu nhập của công nhân tại các khu công nghiệp vùng Đồng
bằng sông Cửu Long”. Đề tài nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến thu
nhập của công nhân tại các khu công nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long. Số
liệu sơ cấp trong nghiên cứu được thu thập thông qua hình thức phỏng vấn
trực tiếp công nhân bằng bảng câu hỏi theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
từ 320 công nhân đang làm việc tại các khu công nghiệp ở thành phố Cần Thơ,
Vĩnh Long và Cà Mau. Phương pháp thống kê mô tả và hồi quy tuyến tính đa
biến được dùng để phân tích số liệu điều tra, phỏng vấn. Kết quả cho thấy, - 9 -
kinh nghiệm làm việc, thu nhập mong đợi và trình độ học vấn là những nhân
tố chi phối đến thu nhập của công nhân.
Nhóm tác giả Bùi Văn Trịnh, Huỳnh Văn Tùng, Trần Thị Mỹ Trinh và

vấn trực tiếp 350 nông hộ tỉnh Cà Mau. Tác giả sử dụng phương pháp thống
kê mô tả và phương pháp ước lượng bình phương bé nhất (OLS) cho mô hình
hồi quy để phân tích, xử lý số liệu. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ đa
dạng hóa thu nhập, trình độ học vấn của chủ hộ, tài sản bình quân đầu người,
số lao động, khoảng cách từ nơi ở của hộ đến thị xã hay thành phố, hộ được hỗ - 10 -
trợ từ người thân ở nước ngoài, số tiền chi cho đầu tư sản xuất là những nhân
tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ.
Ghafoor và các tác giả (2010) thực hiện đề tài nghiên cứu nhằm khám
phá những nhân tố có tác động đến thu nhập và tiết kiệm của hộ nông dân ở
Punjad, Pakistan. Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng để
tiến hành thu thập số liệu trực tiếp thông qua bảng câu hỏi và sử dụng mô hình
hồi quy Logistic để phân tích số liệu. Kết quả cho thấy, tuổi tác, trình độ học
vấn, nắm giữ đất đai, chi phí nông nghiệp và số thành viên gia đình tham gia
vào hoạt động nông nghiệp là những nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của
nông dân trong khi tuổi tác, trình độ học vấn, chi phí y tế, thu nhập, số lượng
thành viên phụ thuộc và tín dụng trả dần là các nhân tố ảnh hưởng đến tiết
kiệm.
Tác giả Huynh Truong Huy (2011) với đề tài “Income diversification of
households: The case of the Mekong Delta” nhằm khám phá những nhân tố
tác động đến thu nhập và sự ảnh hưởng của nó đến quyết định đa dạng hóa thu
nhập của hộ gia đình Đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả phân tích cho thấy,
các yếu tố đặc điểm gia đình như tuổi, học vấn có tác động tích cực đến thu
nhập. Ngoài ra, những hộ sống ở đô thị hoặc vùng ven đô thị có nhiều cơ hội
để nâng cao hoặc đa dạng hóa nguồn thu nhập hơn so với hộ sống khu vực
thôn quê. Quan trọng hơn, di cư được xem là nhân tố giúp ích cho việc đa
dạng hóa thu nhập và thoát nghèo. Khoảng cách về thu nhập được xem là
nguyên nhân dẫn đến đa dạng hóa thu nhập bằng việc tìm kiếm việc làm ở

Văn Trịnh và cộng sự, 2011).
2.1.3.2 Kinh nghiệm của chủ hộ
Theo Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2011), kinh nghiệm làm việc của
chủ hộ càng nhiều thì thu nhập của hộ sẽ càng tăng. Điều này được giải thích
là do phần lớn nông hộ làm hoạt động nông nghiệp nên kinh nghiệm làm việc
là yếu tố quan trọng quyết định năng suất lao động, từ đó thu nhập của nông
hộ sẽ tăng lên.
2.1.3.3 Trình độ học vấn của chủ hộ
Trình độ học vấn là biến số quan trọng ảnh hưởng đến thu nhập. Chủ hộ
có trình độ học vấn càng cao thì thu nhập/người/tháng sẽ tăng lên (Bùi Văn
Trịnh và cộng sự, 2011). Thông thường, những công việc có mức lương cao
luôn đi kèm với chuyên môn và trình độ học vấn cao. Mặt khác, có trình độ
học vấn cao sẽ giúp nông hộ dễ dàng tiếp cận và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất, giảm chi phí sản xuất và từ đó gia tăng
thu nhập. Theo Trương Đông Lộc và Đặng Thị Thảo Triều (2011), những gia
đình mà chủ hộ có trình độ học vấn cao thường nắm bắt tốt hơn các cơ hội đầu
tư, quy trình kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, và định hướng được kế hoạch sản
xuất, chi tiêu một cách hợp lý nhất.
2.1.3.4 Đa dạng hóa thu nhập
Theo Trần Quế Anh và cộng sự (2011), nếu hộ có nhiều hoạt động tạo ra
thu nhập thì thu nhập của hộ sẽ càng cao. Trong thực tế, ngoài hoạt động sản
xuất nông nghiệp, nông hộ còn tham gia nhiều hoạt động khác như làm nghề
thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ, làm dịch vụ, một số nông hộ có trình độ học
vấn cao còn tham gia các hoạt động đoàn thể ở địa phương hay làm việc cho
các cơ quan nhà nước. Mức độ đa dạng hóa thu nhập của nông hộ được đo
lường bằng chỉ số Simpson về đa dạng hóa (Simpson Index of Diversity – - 12 -
SID)

chung. Theo Trương Đông Lộc và Đặng Thị Thảo (2011), lượng vốn vay càng
nhiều sẽ giúp nông hộ có điều kiện thâm canh, mở rộng quy mô sản xuất, từ

5
Chỉ Simpson (Simpson Index of Diversity - SID) về đa dạng hóa được dùng để do lường
mức độ đa dạng hóa thu nhập của nông hộ. Chỉ số Simpson được tính như sau:
SID = 1 -
Trong đó: P
i
là tỷ trọng của thu nhập từ hoạt động thứ i.
Chỉ số SID dao động từ 0 – 1. Nếu nông hộ chỉ tham gia duy nhất 1 hoạt động tạo ra thu
nhập thì P
i
= 1, SID = 0. Ngược lại, nếu nông hộ càng tham gia nhiều hoạt động tạo ra thu
nhập thì tỷ trọng P
i
sẽ càng giảm xuống, lúc đó SID sẽ tiến dần về 1. - 13 -

đó gia tăng thu nhập. Vốn rất cần thiết cho đầu tư sản xuất. Ở khu vực nông
thôn, khi thiếu vốn nông hộ thường vay từ ba nguồn là phi chính thức như vay
bạn bè, người thân, hàng xóm hay vay ngoài với lãi suất cao; nguồn chính thức
như ngân hàng, quỹ tín dụng và nguồn bán chính thức từ các tổ chức đoàn thể
như hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội nông dân, hội cựu chiến binh.
2.1.3.8 Hoạt động phi nông nghiệp
Ngoài hoạt động sản xuất nông nghiệp thì hoạt động phi nông nghiệp
cũng đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho nông hộ. “Hoạt động phi nông
nghiệp có từ buôn bán, tiền lương, đây là những hoạt động có tỷ suất lợi nhuận


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status