Đánh giá thực trạng sử dụng đất nông – lâm nghiệp theo hướng phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh - Pdf 30

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN THANH TÙNG
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT
NÔNG – LÂM NGHIỆP THEO HƯỚNG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN HƯƠNG KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Mã số: 60.85.01.03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HOÀNG THỊ THÁI HÒA
HUẾ - 2014
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành
và sâu sắc nhất tới PGS.TS. Hoàng Thị Thái Hòa đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ
bảo tận tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông lâm
Huế, Phòng Đào tạo sau Đại học, quý thầy cô giáo khoa Tài nguyên đất và Môi
trường nông nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành chương trình
học tập và nghiên cứu này.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo và anh chị em cán bộ,
công nhân viên chức Ủy ban nhân dân huyện Hương Khê, toàn thể bà con nhân
dân 38 hộ gia đình sản xuất kinh doanh theo mô hình trang trại đã giúp đỡ tạo
mọi điều kiện cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến những người thân trong gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp đã luôn sát cánh và động viên giúp đỡ tôi về mọi mặt
trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện, nhưng do kiến thức còn

sản xuất trang trại trên địa bàn huyện Hương Khê, tôi rút ra một số nhận xét như sau:
93
- Hương Khê là một huyện miền núi của tỉnh Hà Tĩnh với diện tích đất tự nhiên là
126.350,04 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 112.318,92 ha; đất phi nông nghiệp
10.000,29 ha, đất chưa sử dụng 4.030,83 ha. Trong số diện tích đất chưa sử dụng, có
khoảng 1.800 ha có khả năng đưa vào sản xuất nông nghiệp 93
- Mô hình trang trại trong huyện dao động từ 175 trang trại năm 2010 đến 38 trang trại
năm 2013. Trong năm 2013, toàn huyện có 38 mô hình kinh tế trang trại (12 trang trại
trồng trọt, 4 trang trại chăn nuôi, 6 trang trại lâm nghiệp, 1 trang trại nuôi trồng thủy
sản và 15 trang trại tổng hợp) nhưng chỉ có 33 trang trại đạt tiêu chí theo qui định phân
loại năm 2011, còn lại 5 trang trại chưa đạt tiêu chí. Tổng diện tích sử dụng đất của 38
trang trại là 648,2 ha (chiếm 5,86% diện tích đất nông - lâm nghiệp toàn huyện) bao
gồm: trang trại chăn nuôi chiếm 14,9 ha, trang trại lâm nghiệp 275,1 ha, trang trại nuôi
trồng thủy sản 3,8 ha, trang trại tổng hợp 181,1 ha, trang trại trồng trọt 173,3 ha. Lợi
nhuận hàng năm mà các trang trại mang lại đạt gần 450 triệu đồng/trang trại, trong đó:
trang trại chăn nuôi cho lợi nhuận trung bình 297,07 triệu đồng/trang trại, trang trại
lâm nghiệp cho lợi nhuận trung bình 455,71 triệu đồng/trang trại, trang trại nuôi trồng
thủy sản cho lợi nhuận 205,67 triệu đồng, trang trại tổng hợp cho lợi nhuận 448,27 triệu
đồng/trang trại, trang trại trồng trọt có lợi nhuận 479,67 triệu đồng/trang trại 93
- Trên khía cạnh kinh tế, các mô hình kinh tế trang trại mang lại lợi nhuận khá lớn cho
bản thân các chủ trang trại và có đóng góp không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế toàn
huyện, là mô hình kinh tế mũi nhọn trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn. Tổng lợi
nhuận từ 38 trang trại mang lại trong năm 2013 đạt 16.536,31 triệu đồng, trong đó 12
trang trại trồng trọt và 15 trang trại tổng hợp mang về mức lợi nhuận lần lượt là
4
5.756,09 triệu đồng và 6.724,05 triệu đồng. Đối với hiệu quả sử dụng vốn, trang trại
trồng trọt có hiệu quả sử dụng vốn cao nhất (3,8 lần), tiếp theo là trang trại lâm nghiệp
có hiệu quả sử dụng vốn là 3,67 lần. Về hiệu quả xã hội, các mô hình trang trại còn tạo
ra công ăn việc làm cho một số lượng không nhỏ người lao động (384 lao động, trong đó
có 49 lao động được thuê cố định). Về mặt môi trường, các mô hình trồng trọt và lâm

Reference source not found
Bảng 1.5. Tình hình phát triển trang trại của Đài Loan qua các năm Error:
Reference source not found
Bảng 1.6. Tình hình phát triển trang trại của Thái Lan qua các năm Error:
Reference source not found
Bảng 1.7. Thống kê số lượng trang trại của các vùng qua các nămError: Reference
source not found
Bảng 3.1. Tình hình dân số của huyện Hương Khê giai đoạn 2010 - 2013 Error:
Reference source not found
Bảng 3.2. Bảng tổng hợp cơ cấu lao động trong các ngành kinh tếError: Reference
source not found
Bảng 3.3. Hiện trạng và biến động sử dụng đất nông - lâm nghiệp huyện Hương
Khê Error: Reference source not found
Bảng 3.4. Số lượng trang trại huyện Hương Khê phân bố theo các đơn vị hành
chính giai đoạn 2010-2013 Error: Reference source not found
Bảng 3.5. Số lượng các trang trại huyện Hương Khê năm 2013 phân theo loại hình
sản xuất và quy mô diện tích Error: Reference source not found
Bảng 3.6. Cơ cấu sử dụng đất trong trang trại Error: Reference source not found
Bảng 3.7. Tỷ lệ sử dụng đất nông nghiệp cho trang trại so với cơ cấu sử dụng đất
huyện Hương Khê năm 2013 Error: Reference source not found
Bảng 3.8. Tỷ lệ sử dụng đất nông lâm nghiệp cho phát triển trang trại Error:
Reference source not found
Bảng 3.9. Giá trị sản xuất của các mô hình trang trại trong năm 2013 Error:
Reference source not found
Bảng 3.10. Lợi nhuận của các mô hình trang trại trong năm 2013 Error: Reference
source not found
Bảng 3.11. Hiệu quả sử dụng vốn của các mô hình trang trại năm 2013 Error:
Reference source not found
Bảng 3.12. Hiệu quả chi phí đầu tư sản xuất của các mô hình trang trại trên địa
bàn huyện Hương Khê năm 2013 Error: Reference source not found

source not found
Hình 3.1. Vị trí huyện Hương Khê trong tỉnh Hà Tĩnh. Error: Reference source not
found
Hình 3.2. Biểu đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Hương Khê năm 2013 Error:
Reference source not found
Hình 3.3. Biểu đồ cơ cấu sử dụng đất huyện Hương Khê năm 2013 Error:
Reference source not found
Hình 3.4. Biểu đồ giá trị sản lượng hàng hóa và lợi nhuận trung bình trên 01 ha
của các trang trại trên địa bàn năm 2013 Error: Reference source not found
Hình 3.5. Hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả chi phí đầu tư của trang trại năm 2013
Error: Reference source not found
8
viii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền sản
xuất hàng hoá. Trong gần hai thế kỷ qua, nền nông nghiệp thế giới đã trải qua nhiều
hình thức tổ chức sản xuất khác nhau. Trong những năm gần đây, loại hình kinh tế
trang trại đã thể hiện ưu thế về hiệu quả kinh tế so với kinh tế hộ gia đình nhờ vào lợi
thế của quy mô sản xuất. Hình thức tổ chức sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại
phù hợp với đặc thù của nông nghiệp nên đạt hiệu quả cao, và ngày càng phát triển ở
hầu hết các nước trên thế giới. Việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại là một
quá trình chuyển đổi từ kinh tế hộ nông dân chủ yếu, mang tính sản xuất tự cấp, tự túc
sang sản xuất hàng hoá có quy mô từ nhỏ tới lớn. Trong tiến trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn hiện nay ở nước ta, sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hoá, với quy mô ngày càng lớn và mang tính thâm canh, chuyên canh, phân vùng đang
là một yêu cầu tất yếu khách quan. Phát triển kinh tế trang trại đã, đang và sẽ có những
đóng góp to lớn khối lượng nông sản, đáp ứng nhu cầu nông sản trong nước và hướng
đến xuất khẩu nông sản ra các nước trên thế giới. Sự đóng góp của các kinh tế trang
trại là không thể phủ nhận, không những đem lại lợi nhuận cho chủ trang trại, mà còn

lâm nghiệp cho phát triển trang trại, làm cơ sở đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng quỹ đất này.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu đề tài giúp chúng ta đưa ra cái nhìn cụ thể hơn về thực trạng sử dụng
đất cho phát triển kinh tế trang trại tại huyện Hương Khê. Từ đó thấy được hiệu quả
việc sản xuất của các mô hình trang trại trên địa bàn cũng như tầm quan trọng của nó
trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn.
10
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm về đất đai
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho nhân
loại, con người sinh ra trên đất, sống và lớn lên nhờ vào sản phẩm của đất. Cho đến
nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến những khái niệm, định nghĩa
về đất. Học giả người Nga, Docutraiep cho rằng “Đất là vật thể thiên nhiên cấu tạo độc
lập, lâu đời do kết quả của quá trình hoạt động tổng hợp của các yếu tố hình thành bao
gồm: đá, thực vật, động vật, khí hậu, địa hình, thời gian” [9]. Về sau các học giả khác
nghiên cứu, bổ sung các yếu tố khác tồn tại trong môi trường xung quanh như nước
ngầm và vai trò của con người để hoàn chỉnh khái niệm về đất đai. Học giả người Anh,
Wiliam đã đưa thêm khái niệm về đất như “Đất là lớp mặt tơi xốp của lục địa có khả
năng tạo ra sản phẩm cho cây” [15]. Bàn về vấn đề này, C.Mác đã viết: “Đất là tư liệu
sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu nhất của sản xuất nông nghiệp”, “Điều kiện
không thể thiếu được của sự tồn tại và sinh sống của hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp
nhau” [17].
Theo quan niệm của các nhà thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho rằng “Đất
là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc được” [8]. Hiểu theo nghĩa
rộng: “Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các yếu tố cấu
thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt bao gồm: khí hậu, thời tiết,
thổ nhưỡng, địa hình, mặt nước, các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và

công nghiệp lần thứ nhất ở một số nước Châu Âu” [10].
Theo Trần Hữu Quang: “Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất nông – lâm
nghiệp dựa trên cơ sở lao động và đất đai của hộ gia đình là chủ yếu, có tư cách pháp
nhân, tự chủ sản xuất kinh doanh và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, có
chức năng chủ yếu là sản xuất hàng hoá tạo ra nguồn thu nhập chính cho gia đình và
đáp ứng cho nhu cầu của xã hội” [19].
Ngày 10/01/1998, Bộ Chính trị ra Nghị quyết Trung Ương số 06/NQ – TW xác
định: “Trang trại gia đình thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn, sử
dụng lao động, tiền vốn của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả” [2].
Tháng 4 năm 2000, hội thảo về kinh tế trang trại trong cả nước được tổ chức tại
thành phố Hồ Chí Minh, qua đó Ban Kinh tế Trung Ương đã đưa ra khái niệm: “Trang
trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn trong nông – lâm – ngư nghiệp của các
thành phần kinh tế khác nhau ở nông thôn, có sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực
tiếp quá trình sản xuất kinh doanh, có phương pháp tạo ra suất sinh lợi cao hơn bình
thường trên đồng vốn bỏ ra, có trình độ đưa ra những thành tựu khoa học công nghệ
mới kết tinh trong hàng hoá tạo ra sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường xã hội, mang
lại hiệu quả kinh tế cao” [3].
Mặc dù nhận thức vẫn còn khác nhau bởi nhiều khía cạnh, nhưng nhìn chung
quan điểm và nhận thức về bản chất và đặc trưng của kinh tế trang trại về cơ bản là đã
12
gần gũi, có sự thống nhất và có một số điểm chung như:
- Trang trại là một cơ sở sản xuất kinh doanh hàng hoá trong nông, lâm , ngư
nghiệp ở nông thôn.
- Có nguồn gốc hình thành và phát triển từ kinh tế hộ nhưng ở vào giai đoạn có
trình độ tổ chức quản lý sản xuất hàng hoá cao hơn.
- Khai thác và sử dụng các nguồn lực kinh tế ở địa phương (như đất đai, vốn, lao
động, ứng dụng khoa học công nghệ) một cách có hiệu quả.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với nền kinh tế thị trường.
- Nguồn gốc sở hữu trang trại chủ yếu là thành phần kinh tế tư nhân.
Từ những điểm chung trên, có thể nhận định về kinh tế trang trại như sau: “Kinh

1.1.3.2. Các yếu tố sản xuất của trang trại trước hết là ruộng đất và tiền vốn được tập
trung với quy mô nhất định
Trong nông nghiệp cũng như trong ngành sản xuất vật chất khác, sản xuất hàng
hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập trung tới quy mô nào
đó. Do đó ở các trang trại, sản xuất hàng hoá chỉ có thể được thực hiện khi ruộng đất,
tiền vốn, tư liệu sản xuất được tập trung tới quy mô cần thiết đủ lớn (lớn hơn mức
hạn điền cho một hộ nông dân). Đó là kết quả của sự tích tụ, tập trung ruộng đất qua
quyền chuyển nhượng hoặc cho thuê lại quyền sử dụng đất của các hộ khác. Đặc trưng
này được quy định bởi chính đặc trưng về mục đích sản xuất của trang trại. Ở các
trang trại tư nhân, quy mô tập trung các yếu tố sản xuất lớn hơn hẳn so với các trang
trại gia đình, còn các trang trại gia đình mặc dù có quy mô lớn hơn nhiều so với kinh
tế hộ tự cấp, tự túc, song nói chung vẫn nằm trong khuôn khổ gia đình, chịu sự giới
hạn nhất định của các yếu tố sản xuất nội lực.
1.1.2.3. Tư liệu sản xuất trong trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của
một người chủ độc lập
Chủ trang trại là người lao động tại chỗ (chủ hộ nông dân) hoặc có thể từ nơi
khác đến đầu tư. Họ là người có ý chí làm giàu, có vốn, có năng lực tổ chức quản lý,
có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, đồng thời có hiểu biết nhất định về
kinh doanh và nắm bắt nhu cầu thị trường. Do trang trại hoạt động theo cơ chế thị
trường nên có thể huy động cổ phần và tham gia các hình thức liên kết phù hợp.
Trong các trang trại mà tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu của chủ trang trại
trong trường hợp đi thuê hoặc được giao quyền sử dụng thì tư liệu sản xuất đều thuộc
quyền sử dụng của một người chủ độc lập. Người chủ độc lập ở đây là người hoàn
toàn có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều đó có nghĩa là ở
những hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm nghiệp dựa trên sở hữu Nhà
nước và sở hữu tập thể (nông, lâm trường quốc doanh, hợp tác xã nông nghiệp ) thì
không thuộc khái niệm trang trại.
1.1.3.4. Phương thức khai thác đất đai bằng chính sức lao động trực tiếp và kinh
nghiệm sản xuất nông nghiệp của gia đình:
Vì kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp,

doanh nhằm đạt lợi nhuận nhiều hơn thì cách quản lý theo kiểu gia trưởng không còn
thích hợp nữa. Sản xuất đòi hỏi phải có phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi,
quy hoạch ruộng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng, áp dụng công nghệ và quy trình thâm
canh
- Về hoạt động tài chính và hoạch toán của trang trại: hoạt động tài chính và
hoạch toán của trang trại dần thay đổi. Lúc đầu khi mới đi vào sản xuất hàng hoá, chủ
trang trại thường ghi nhớ trong đầu hoặc có ghi chép, hoạch toán đơn giản lượng thu,
lượng chi và phần thu nhập dôi ra đối với vài cây trồng, vật nuôi chủ yếu. Khi sản xuất
hàng hoá đã trở thành hướng chính, các trang trại thường thực hiện hoạch toán giá
15
thành và lợi nhuận đối với từng cây, con hàng hoá. Đến khi trang trại kinh doanh gần
như một doanh nghiệp thì hoạt động tài chính đi vào chiều sâu, bao gồm các nội dung:
kế hoạch tài chính, hoạch toán giá thành, lợi nhuận, phân tích kinh doanh Hoạt động
tài chính và hoạch toán của trang trại ngày càng có vai trò quan trọng và ngày càng
phức tạp đòi hỏi phải có kiến thức và nghiệp vụ kế toán, hoạch toán nhất định.
- Về tiếp cận thị trường: thái độ và hành động đối với thị trường của trang trại
cũng từng bước được thay đổi theo hướng ngày càng tiếp cận và gắn kết với thị trường.
Đó là những đặc trưng của trang trại, quy các đặc trưng đó có thể hình dung trang
trại như một doanh nghiệp vừa và nhỏ với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc
công ty cổ phần trong nông, lâm, ngư nghiệp khi có đầy đủ điều kiện pháp lý. Đây
cũng là những đặc trưng để xác định các tiêu chí của trang trại [1].
1.1.4. Những tiêu chí của kinh tế trang trại và phân loại trang trại
1.1.4.1. Tiêu chí để nhận dạng kinh tế trang trại
 Tiêu chí định tính
Tiêu chí định tính dựa trên các đặc trưng cơ bản của trang trại để đánh giá:
- Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất các mặt hàng nông nghiệp (nông,
lâm, thuỷ sản) theo hình thức hàng hoá với quy mô lớn.
- Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản xuất cao
hơn hẳn so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở quy mô sản xuất như: đất đai, số
lượng gia súc, lao động, giá trị sản phẩm, mức đầu tư, thu nhập.

- Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên.
- Đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
2. Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ tương
ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế.
Quy mô sản xuất của trang trại được xác định như bảng 1.1.
Ngày 13 tháng 4 năm 2011, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành
Thông tư số 27/2011/TT- BNNPTNT quy định về thủ tục cấp cấp giấy chứng nhận
kinh tế trang trại. Trong đó thì tiêu chí xác định kinh tế trang trại có một số thay đổi và
được quy định như sau:
Cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản đạt
tiêu chuẩn kinh tế trang trại phải thỏa mãn điều kiện sau:
1. Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp phải đạt:
a) Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu:
- 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long;
- 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại.
b) Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm.
17
Bảng 1.1. Quy mô các loại hình trang trại
STT Loại hình trang trại Quy mô
I Đối với trang trại trồng trọt Quy mô diện tích
1 Cây hàng năm
- Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc
và Duyên hải miền Trung.
- Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía
Nam và Tây Nguyên
2 Cây lâu năm (Chè, cây ăn qủa…)
- Các tỉnh phía Bắc là 3 ha và Duyên hải
miền Trung là 5 ha. Riêng trang trại trồng
hồ tiêu thì chỉ cần từ 0,5 ha trở lên
3 Lâm nghiệp

Diện tích mặt nước từ 2 ha trở lên đối với
tất cả các vùng trong cả nước
Diện tích từ 1 ha trở lên
IV
Đối với các loại sản phẩm nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có tính
chất đặc thù như: Trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thuỷ sản,
thuỷ đặc sản thì tiêu chí xác định là giá trị sản lượng hàng hoá bình quân một
năm đạt từ 40 triệu đồng trở lên
Nguồn: [6]
18
2. Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu
đồng/năm trở lên;
3. Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị
sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên [5].
1.1.4.2. Phân loại trang trại
Có nhiều cách phân loại trang trại khác nhau như:
 Theo lĩnh vực sản xuất
- Trang trại trồng trọt
- Trang trại chăn nuôi
- Trang trại lâm nghiệp
- Trang trại nuôi trồng thuỷ sản
- Trang trại tổng hợp
Trang trại chuyên ngành (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản)
là trang trại có tỷ trọng giá trị sản lượng nông sản hàng hóa của ngành chiếm trên 50%
cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại trong năm. Trường hợp không có
ngành nào chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa thì được gọi là trang trại
tổng hợp [5].
 Theo quy mô diện tích:
- Trang trại có diện tích dưới 5 ha
- Trang trại có diện tích từ 5-10 ha

một loại hàng hoá mà không cắt giảm một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu
quả, một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì các điểm lựa chọn đều nằm trên một
đường giới hạn khả năng sản xuất của nó”, hoặc “Khi sản xuất có hiệu quả, chúng ta
nói rằng nền kinh tế đang sản xuất trên giới hạn khả năng sản xuất” [4].
- Quan điểm khác lại khẳng định “Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối quan hệ
tương quan so sánh giữa kết quả sản xuất đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả
đó” [8]. Kết quả sản xuất ở đây được hiểu là giá trị sản xuất đầu ra, còn lượng chi phí
bỏ ra là giá trị của các nguồn lực đầu vào.
 Về hiệu quả sử dụng đất:
Hiệu quả sử dụng đất là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất đai
trong hoạt động kinh tế thể hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị (lợi nhuận) thu
được bằng tiền; về mặt xã hội, đây là chỉ số thể hiện hiệu quả của lực lượng lao động
được sử dụng trong cả quá trình hoạt động kinh tế cũng như hàng năm trong việc khai
thác đất đai.
Hiệu quả sử dụng đất là kết quả của cả một hệ thống các biện pháp tổ chức sản
xuất, khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và phát huy các lợi thế, khắc phục các khó
khăn khách quan của điều kiện tự nhiên; trong những hoàn cảnh thực tế nhất định, còn
20
gắn sản xuất nông nghiệp với các ngành khác của kinh tế quốc dân, cũng như sản xuất
trong nước gắn với thị trường quốc tế… Cùng với các biện pháp kỹ thuật thâm canh
truyền thống, phải coi trọng việc vận dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, tiến
hành mạnh mẽ việc bố trí cơ cấu kinh tế theo hướng khắc phục tính tự cấp tự túc về
lương thực từ lâu đời, biến đổi mạnh nông nghiệp thành một ngành kinh tế hàng hoá;
chỉ trên cơ sở đó mới có điều kiện thực tế tận dụng các tiềm năng phong phú sẵn có về
đất đai và lao động của Việt Nam [28].
1.1.5.2. Phân loại và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
 Hiệu quả kinh tế:
Để đánh giá hiệu quả kinh tế, người ta căn cứ các chỉ tiêu về:
1- Hiệu quả sử dụng đất (H): được phản ánh qua chỉ tiêu giá trị sản xuất bình
quân trên một đơn vị canh tác.

Đối với kinh tế trang trại, tác giả Nguyễn Minh Đức đưa ra phương pháp tính
toán hiệu quả kinh tế khá chi tiết, bao gồm việc tính toán các chỉ tiêu:
* Tính toán chi phí sản xuất
- Chi phí cố định
Là các chi phí cho các tài sản cố định sử dụng cho nhiều chu kỳ sản xuất. Đây là
các chi phí mà nhà sản xuất phải trả kể cả khi hoạt động sản xuất không được diễn ra.
Đa số các tài sản được sử dụng nhiều năm và trong mỗi năm sử dụng người ta
phải tính toán khấu hao.
Có 3 cách tính khấu hao khác nhau.
Cách 1: Phương pháp tính khấu hao theo đường thẳng (khấu hao đều cho các năm)
Chi phí khấu hao = (giá mua tài sản – giá trị thanh lý tài sản) /số năm sử dụng
Cách 2: Tính khấu hao theo phương pháp giảm dần giá trị
Phương pháp này áp dụng với một tỷ lệ khấu hao nhất định. Theo cách tính này,
giá trị khấu hao hàng năm giảm dần khi khi giá trị thực tế của tài sản giảm dần.
Cách 3: Tính toán khấu hao theo phương pháp tổng các chữ số năm sử dụng
Giá trị khấu hao = (giá mua - giá thanh lý) * (Số năm sử dụng còn lại /Tổng các
chữ số năm sử dụng )
- Chi phí biến đổi Là các chi phí sử dụng cho các hoạt động diễn ra trong 1 vụ
sản xuất.
* Tổng thu nhập :
Tổng thu nhập được xác định bằng tổng giá trịsản phẩm của đơn vị sản xuất
trong một giai đoạn sản xuất nhất định, bao gồm:
Doanh thu = Sản lượng bán x Đơn giá.
22
Tiền quy đổi từ lượng sản phẩm tiêu thụ gia đình.
Tiền quy đổi từ lượng sản phẩm cho đi.
Tiền quy đổi từ lượng sản phẩm trao đổi thay tiền mặt chi phí sử dụng cho các
hoạt động diễn ra trong 1 vụ sản xuất.
* Phân tích kinh tế
Dựa vào các số liệu về chi phí và thu nhập, ta tiến hành phân tích hiệu quả kinh tế

- Tỷ lệ lợi nhuận = lợi nhuận thu được/chi phí sản xuất.
- Thời gian thu hồi vốn = tổng vốn đầu tưban đầu/(lợi nhuận + khấu hao).
- Mức giá hoà vốn = tổng chi phí sản xuất/tổng sản phẩm.
- Sản lượng hoà vốn(mức sản lượng tại đó thu nhập mang lại vừa đủ cho việc
mua sắm các loại đầu tư) = tổng chi phí sản xuất/giá sản phẩm.
 Hiệu quả xã hội:
Phản ánh mối tương quan giữa kết quả thu được về mặt xã hội mà sản xuất mang
lại với các chi phí sản xuất xã hội bỏ ra. Loại hiệu quả này đánh giá chủ yếu về mặt xã
hội do hoạt động sản xuất đem lại. Hiệu quả xã hội có liên quan mật thiết với hiệu quả
kinh tế và thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người. Việc lượng hoá các chỉ
tiêu biểu hiện hiệu quả xã hội là rất khó khăn, do vậy chủ yếu phản ánh bằng các chỉ
tiêu mang tính định tính như tạo công ăn việc làm cho người lao động, ổn định chổ ở,
xoá đói giảm nghèo, định canh, định cư lành mạnh xã hội Một số chỉ tiêu đánh giá như:
- Hệ thống phải phát huy được nội lực của nông hộ và nguồn lực của địa phương.
- Hệ thống sử dụng đất phải phù hợp với luật pháp và hương ước cộng đồng.
- Mức độ sử dụng lao động, giải quyết việc làm.
- Trình độ dân trí, trình độ hiểu biết khoa học kỹ thuật.
- Tỷ lệ giảm hộ đói nghèo, đảm bảo an toàn lương thực.
 Hiệu quả môi trường:
Hiệu quả môi trường được các nhà môi trường học và đặc biệt là người dân rất
quan tâm trong điều kiện hiện nay. Một hoạt động sản xuất được coi là có hiệu quả khi
hoạt động sản xuất đó không có những ảnh hưởng xấu đến môi trường đất, nước,
không khí, không làm ảnh hưởng xấu đến môi sinh và đa dạng sinh học và đảm bảo
một mô hình sản xuất phát triển bền vững.
Việc xác định hiệu quả về mặt môi trường của quá trình sử dụng đất đòi hỏi phải
có số liệu phân tích kỹ về mẫu đất, nguồn nước và các nông sản trong một thời gian
nhất định, cũng như mức độ ảnh hưởng môi trường. Trong phạm vi nghiên cứu của đề
tài chúng tôi chỉ xin đề cập đến một số ảnh hưởng về mặt môi trường thông qua các
chỉ tiêu:
- Độ che phủ của các mô hình trang trại lâm nghiệp và diện tích đất lâm nghiệp

hiệu quả sử dụng vốn. Do yêu cầu phải mở rộng quy mô và phát triển sản xuất nên chủ
trang trại phải tận dụng triệt để nguồn vốn tự có và khai thác nguồn vốn khác. Những
năm qua, kinh tế trang trại phát triển đã góp phần huy động lượng vốn đầu tư khá lớn
trong dân (trên 20.000 tỷ đồng) [21], đưa vào phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và mở
rộng thêm ngành nghề ở nông thôn.
1.2.1.2. Về xã hội
Kinh tế trang trại phát triển góp phần giải quyết việc làm cho lao động ở nông
thôn, tận dụng lực lượng lao động dư thừa thuộc mọi lứa tuổi trong nông nghiệp, giải
quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
25

Trích đoạn Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status