Pháp luật về Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay Luận văn ThS. Luật - Pdf 28

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012

MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI
VỚI LAO ĐỘNG NỮ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC
HIỆN BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
9

24
1.4.
Một số quy định của pháp luật quốc tế về bảo hiểm xã hội
đối với lao động nữ
26
1.4.1.
Các công ước quốc tế
27 1.4.2.
Pháp luật một số nước
30

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM
XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
37
2.1.
Chế độ nghỉ chăm sóc con ốm
37
2.1.1.
Điều kiện hưởng chế độ nghỉ chăm sóc con ốm
37
2.1.2.
Chế độ và quyền lợi
37
2.2.
Chế độ thai sản
41
2.2.1.

3.1.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội đối với
lao động nữ
68
3.1.1.
Nâng cao nhận thức cho lao động nữ về bảo hiểm xã hội
68
3.1.2.
Nâng cao tính đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật
68
3.1.3.
Đảm bảo sự ổn định và bền vững của nguồn tài chính
69
3.1.4.
Hoàn thiện mô hình quản lý và nâng cao năng lực bộ máy
quản lý nhà nước
69 3.2.
Một số giải pháp hoàn thiện bảo hiểm xã hội đối với lao
động nữ
70
3.2.1.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao
động nữ
71
3.2.2.
Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp
luật bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ là lực lượng lao động đông đảo, có vị trí, vai trò vô cùng quan
trọng trong gia đình và xã hội. Cũng như bất kỳ người lao động nào trong
quan hệ lao động, lao động nữ có nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội để được
bù đắp phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút trong các trường hợp họ bị
giảm hoặc mất khả năng lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi
già hay do sự tác động của kinh tế thị trường. Tuy nhiên với tính đặc thù của
mình, lao động nữ cần chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp để không chỉ giúp lao
động nữ thực hiện tốt chức năng lao động mà còn phải thực hiện tốt chức
năng tái sản xuất sức lao động cho xã hội. Vốn được coi là phái yếu trong mọi
quan hệ xã hội (trong đó có quan hệ lao động), lao động nữ luôn luôn phải
đấu tranh để được bình đẳng với nam giới. Ăngghen đã chỉ ra rằng: "Trong ba
hình thức bất bình đẳng lớn nhất của lịch sử nhân loại thì quan hệ bất bình
đẳng giữa nam và nữ chính là nguồn gốc đích thực về mặt lịch sử, xã hội của
những mâu thuẫn cơ bản… " [24]. Ngày nay, sự bất bình đẳng đó vẫn tồn tại
ở hầu khắp các khu vực và trên thế giới. Điều đó đã hạn chế sự vươn lên của
phụ nữ khiến họ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, trong lao động và trong
quá trình thực hiện thiên chức của mình. Vì thế, việc đề ra các chủ trương,
biện pháp để bảo vệ phụ nữ là một trong những mối quan tâm hàng đầu của
các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Và bảo hiểm xã hội là một
trong những biện pháp, chính sách quan trọng được các quốc gia sử dụng để
bảo vệ họ.
Ở Việt Nam, pháp luật về bảo hiểm xã hội đã có những quy định riêng
tương đối phù hợp với những nét đặc thù của lao động nữ và có hiệu quả
trong việc bảo vệ lợi ích của họ, nhất là trong chế độ trợ cấp thai sản. Các quy
định này một phần giúp cho lao động nữ phục hồi sức khỏe, một phần giúp họ

3
thông qua mạng, báo chí Như bài viết của TS. Nguyễn Hữu Chí: "Hoàn
thiện thực thi pháp luật về lao động nữ trong doanh nghiệp ngoài Nhà nước";
TS. Nguyễn Thị Kim Phụng với bài viết: "Nội luật hóa CEDAW về bảo hiểm
xã hội đối với lao động nữ khi dự thảo Luật bảo hiểm xã hội"; tác giả Đào
Duy Phương về: "Chế độ bảo hiểm xã hội về thai sản theo pháp luật hiện
hành"… Tuy nhiên, các công trình của các tác giả mới chỉ tập trung nghiên
cứu trong những phạm vi hẹp mang tính chất nghiên cứu , trao đổi, là các công
trình nghiên cứu khoa học ngắn gọn trên các tạp chí có tính gợi mở . Việc
nghiên cứu , tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đê
̉

hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là điều cần thiết.
Ngoài ra, trên cơ sở tìm hiểu các thành quả mà người đi trước đã đạt
được, tác giả tiếp tục nghiên cứu và kiến nghị đưa ra các giải pháp để góp
phần hoàn thiện thực trạng chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ. Một
trong những vấn đề góp phần làm nên thành công của luận văn là việc nghiên
cứu các tài liệu, vì thế nên việc tiếp cận và tìm hiểu các văn bản pháp lý liên
quan đến chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ là hết sức cần thiết.
Người viết tập trung nghiên cứu các văn bản pháp luật Việt Nam gồm đạo
luật quan trọng có giá trị cao nhất đảm bảo quyền con người, đặc biệt là
quyền của phụ nữ như: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp
năm 1980, Hiến pháp năm 1992. Tìm hiểu hệ thống pháp luật trước khi có
Luật lao động ra đời như các Sắc lệnh 29, Sắc lệnh 54, Sắc lệnh 76, Sắc lệnh
77, Sắc lệnh 105 của Hồ Chủ Tịch, các Điều lệ bảo hiểm ban hành kèm theo
Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995, Nghị định số 45/CP ngày 15/07/1995,
Luật lao động năm 1994, các văn bản hướng dẫn Luật lao động năm 1994,
Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 19/01/2003 của Chính phủ về việc sửa

4.Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
41. Cở sở khoa học
Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng tới một công 5
bằng dân chủ văn minh, đảm bảo quyền con người, tất cả vì con người, do
con người cho nên vấn đề đảm bảo chính sách an sinh nhất là chế độ bảo hiểm
xã hội đối với lao động nữ là một trong những mục tiêu lớn thể hiện tính ưu
việt của chế độ chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khẳng định:
"Chính sách bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều kiện lao động
và sinh hoạt, giáo dục văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân
tộc coi nhẹ chính sách tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa" [15]. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 nhấn mạnh một
lần nữa: "Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội " [18].
Cuộc giải phóng phụ nữ gắn liền với cuộc giải phóng dân tộc luôn là
mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời hướng tới. Từ khi bôn ba tìm
đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều lần đề cập đến bảo hiểm xã
hội. Hồ Chí Minh tố cáo thực dân Pháp câu kết với bọn phản động, người lao
động Việt Nam một cổ hai tròng, không được hưởng bất kỳ một chế độ, chính
sách bảo hiểm nào. Năm 1924 Hồ Chí Minh đã vạch ra sự thống trị của bọn
thực dân phong kiến ở Việt Nam, những nhà máy có hàng ngàn công nhân
phải làm từ 12-13 tiếng, ngày lễ ngày nghỉ không được đếm xỉa đến nhưng
"không có bảo hiểm cho tuổi già, không có trợ cấp lúc thương tật, ốm đau" [25].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo hiểm xã hội là một chính sách cơ
bản đối với người lao động: Nghĩa là không chỉ đặt ra đối với công nhân mà
cả nông dân và những người lao động khác. Tư tưởng này ở Chủ tịch Hồ Chí
Minh xuất hiện ngay từ năm 1930. Trong bài báo cáo về Nghị quyết của
Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương về phong trào nông dân đòi giảm

hội (chủ yếu là người lao động có tham gia bảo hiểm xã hội), cho phép họ
sống có ý nghĩa trong các trường hợp: ốm đau, thai sản, nghỉ hưu. Hơn nữa,
Việt Nam đang từng bước hội nhập khu vực và quốc tế trên tất cả các lĩnh vực
trong đó có pháp luật. Việt Nam đã chính thức phê chuẩn Công ước về xóa
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ - CEDAW và trở thành thành viên
thứ 35 của Công ước này. Nước ta là một trong số các quốc gia có nhiều ưu 7
tiên cho phụ nữ, đặc biệt các Công ước ILO như Công ước số 3 năm 1919,
Công ước số 103 năm 1952 là tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo quyền của phụ
nữ được đặc biệt quan tâm.
Như vậy, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Hiến
pháp, các văn bản pháp luật, các điều ước quốc tế đa phương và song phương
là cơ sở pháp lý đáp ứng đòi hỏi thực tế của cuộc sống, là cơ sở khoa học cho
chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở nước ta.
4.2. Cơ sở thực tế
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là hàng hóa, sự
thuê mướn nhân công phát triển, quan hệ lao động trở nên bất ổn cho người
lao động làm công ăn lương như ốm đau, tai nạn lao động, thai sản cho nên
cần có sự san sẻ rủi ro và chính sách trợ giúp của nhà nước và người sử dụng
lao động. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan đã khiến người lao
động rơi vào cảnh bất lợi nên nhu cầu an sinh càng cao như nhu cầu trợ giúp
thường xuyên đối với đối tượng yếu thế có nguy cơ bị loại trừ như người già,
người sinh con giúp họ thăng bằng thu nhập bị giảm sút hay bị mất. Chế độ
bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ như: ốm đau, thai sản, hưu trí. Ước tính
ở nước ta mỗi năm có gần hai triệu người bước vào độ tuổi lao động, với
những đặc thù về giới như thể lực, tâm sinh lý, cùng với chức năng làm mẹ và
trách nhiệm chăm sóc gia đình đã gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế, cần phải có
chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ để khuyến khích tạo điều kiện

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ và
sự cần thiết phải thực hiện bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội đối với
lao động nữ
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ 9
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN
BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội ra đời trên thế giới vào giữa thế kỷ 19 được xác lập ở
Đức bao gồm chế độ bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp, bảo
hiểm tuổi già, tàn tật sau đó trước tác dụng tích cực của bảo hiểm xã hội
trong quan hệ lao động nhiều nước bắt đầu áp dụng hệ thống bảo hiểm xã hội.
Ở khía cạnh kinh tế và pháp lý sẽ có các khái niệm về bảo hiểm xã hội
khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, bảo hiểm xã hội
là sự: "Bảo đảm những quyền lợi vật chất cho công nhân, viên chức khi
không làm được vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động" [51].
Theo tác giả Trần Quang Hùng và Tiến sĩ Mạc Văn Tiến:
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải các biến cố
hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm bằng các hình thức và
sử dụng một qũy tài chính tập trung sự đóng góp của người sử dụng

trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm mục đích bảo đảm
đời sống xã hội là chính chứ không nhằm mục đích kinh doanh. Tính xã hội
còn biểu thị ở tính tương trợ cộng đồng và sự ưu đãi của xã hội dành cho
người lao động và các thành viên khác trong xã hội. Khi người lao động tham
gia đóng bảo hiểm xã hội, họ không chỉ đóng góp cho mình mà còn hỗ trợ,
giúp đỡ những người lao động khác gặp khó khăn, rủi ro trong cuộc sống. 11
Dưới góc độ pháp lý: Chế độ bảo hiểm xã hội là tổng hợp những quy
định của Nhà nước, quy định các hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh
thần cho người lao động và trong một số trường hợp là thành viên gia đình họ
khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động.
Luật bảo hiểm xã hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2007 đã chính thức quy định chế độ bảo hiểm xã hội tại
Điều 3: "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ
sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội" [41].
1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi
trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến mức độ nào đó thì hệ
thống bảo hiểm xã hội có điều kiện ra đời, phát triển. Vì vậy các nhà kinh tế
cho rằng, sự ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội phản ánh sự phát triển
của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, lạc hậu, đời sống của nhân
dân thấp kém thì không thể có một hệ thống bảo hiểm xã hội vững mạnh. Trái
lại, kinh tế càng phát triển, tiến bộ thì hệ thống bảo hiểm xã hội càng đa dạng,
các chế độ bảo hiểm xã hội càng phong phú và mở rộng hơn, do đó đời sống
xã hội nói chung và đời sống người lao động nói riêng ngày càng được cải
thiện và nâng lên một tầng cao mới.

- Nhà nước thống nhất quản lý bảo hiểm xã hội
Nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Điều 56 Hiến pháp 1992:
"Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định
thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm
xã hội đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương;
khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người
lao động" [34]. 13
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của
đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa Để đảm bảo thực hiện hài
hòa các nội dung nói trên và đạt được mục tiêu mà bảo hiểm xã hội đặt ra thì
việc thực hiện bảo hiểm xã hội trước hết là trách nhiệm của Nhà nước. Trách
nhiệm đó thể hiện: Nhà nước là người trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và quản lý
toàn bộ sự nghiệp bảo hiểm xã hội và kiểm tra việc thực hiện các quy định đó.
Nhà nước tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ mà quy định chính
sách quốc gia về bảo hiểm xã hội, nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc
bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình
họ khi người lao động bị suy giảm khả năng lao động hoặc gặp các rủi ro, khó
khăn khác.
Mặt khác, quỹ bảo hiểm xã hội với ý nghĩa là một quỹ tích lũy hình
thành trên cơ sở đóng góp của ba bên (Nhà nước - Người sử dụng lao động -
Người lao động) nhằm giúp đỡ về mặt vật chất cho người lao động khi họ gặp
các rủi ro, khó khăn không chỉ tham gia quan hệ lao động mà cả khi đã chấm
dứt quan hệ lao động. Do đó, bên cạnh nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm của người
sử dụng lao động, thì Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội
trong trường hợp cần thiết, Nhà nước cho phép áp dụng các biện pháp về bảo
toàn giá trị quỹ, đảm bảo sự an toàn về tài chính cho quỹ bảo hiểm xã hội.
- Thực hiện bảo hiểm xã hội trên cơ sở cân đối mức đóng và hưởng

- Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội không được cao hơn mức tiền lương
khi đang làm việc, nhưng không được thấp hơn mức bảo hiểm tối thiểu do
Nhà nước quy định và trong những trường hợp nhất định phải đảm bảo cuộc
sống tối thiểu cho người được bảo hiểm.
Trợ cấp bảo hiểm xã hội nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động như: ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí Vì vậy, về nguyên
tắc, mức trợ cấp bảo hiểm xã hội không cao hơn mức tiền lương khi đang làm
việc. Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh 15
nguyên tắc phân phối lại quỹ bảo hiểm xã hội cho những người lao động tham
gia bảo hiểm xã hội. Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội không được cao hơn mức
tiền lương của người lao động khi đang làm việc vừa có tác dụng bảo đảm sự
công bằng giữa người lao động đang cống hiến sức lao động (hưởng lương)
và người lao động cống hiến sức lao động ít hơn hoặc phải nghỉ việc hưởng
bảo hiểm xã hội, vừa có tác dụng phòng ngừa và loại bỏ tình trạng lợi dụng,
trục lợi bảo hiểm xã hội từ phía người lao động. Tuy nhiên, cũng cần tính đến
những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của người được bảo hiểm. Do đó, Nhà nước
cần phải quy định khống chế mức trợ cấp bảo hiểm xã hội tối thiểu nhằm bảo
vệ quyền lợi cho người được hưởng bảo hiểm xã hội. Mức trợ cấp bảo hiểm
xã hội tối thiểu được quy định, thay đổi tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ
thể và thường căn cứ vào một số yếu tố liên quan như mức sống tối thiểu, tiền
lương tối thiểu, nhu cầu chi tiêu tối thiểu khi có bảo hiểm xã hội phát sinh.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
1.2.1. Khái niệm lao động nữ và tính đặc thù của lao động nữ
Chiếm khoảng 50% dân số thế giới, phụ nữ hiện đang gánh vác gần
75% thời gian lao động, bao gồm cả lao động xã hội và lao động trong gia
đình. Điều này đã phần nào nói lên vị trí, vai trò của người phụ nữ nói chung

Khi trình độ xã hội phát triển, do tính chất công việc nên nam giới thay thế
phụ nữ nắm giữ quyền lực, theo đó chế độ mẫu hệ cũng mất đi, chế độ phụ
quyền xuất hiện và kéo dài trong nhiều hình thái xã hội. Đặc biệt là xã hội
phong kiến, tư tưởng "trọng nam khinh nữ" như một định chế ghi dấu ấn sâu
sắc trong tư tưởng của mọi tầng lớp xã hội. Người phụ nữ thời kỳ này thực sự
là nô lệ của gia đình. Từ khi sinh ra đến khi chết đi, thân phận của họ phải
phụ thuộc vào cha, chồng, con trai, không được học hành, không có tự do
thân thể, không có bất cứ quyền gì, quyền chính trị cũng không phải là ngoại
lệ. Chỉ đến khi xã hội chủ nghĩa ra đời, chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ,
vai trò, địa vị của người phụ nữ trong xã hội mới lại được quan tâm, coi trọng.
Là một nước nằm trong hệ thống nhà nước xã hội chủ nghĩa, ngay sau khi 17
giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta khẳng định vị thế của phụ nữ bắt
đầu bằng việc ghi nhận phụ nữ được quyền tham gia bầu cử, ứng cử vào cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội); quyền bình đẳng nam nữ được
ghi trong bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta (1946) và từng bước
được thực hiện trong đời sống kinh tế - xã hội và gia đình.
Bước sang thế kỷ XXI, cũng như các quốc gia trên khắp thế giới, ở
Việt Nam, xu hướng chính trị hướng vào quyền con người và sự tiến bộ phụ
nữ được xem như sự tiến bộ của một nửa xã hội. Tuy nhiên, giữa mục tiêu và
thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của lao động nữ còn một khoảng cách
không nhỏ. So với nam giới, tỷ lệ nữ giới trong các vị trí ra quyết định còn
thấp, chưa tương xứng với tỷ lệ về giới giữa nam và nữ. Bên cạnh đó, vẫn còn
những định kiến về vai trò của nữ giới trong chính trị rất nặng nề do nhiều
nguyên nhân như: nhận thức sai lệch về vai trò của phụ nữ, sự ích kỷ của nam
giới, thiếu nguồn hỗ trợ nâng cao năng lực của phụ nữ Điều này đòi hỏi cần
phải có sự quan tâm hơn nữa của các cấp ủy Đảng và Nhà nước, sự cảm
thông, chia sẻ sâu sắc của xã hội để người phụ nữ nói chung, lao động nữ nói

lực, sức khỏe, tâm lý, sinh lý cũng làm nên tính đặc thù của họ.
Xét về thể lực, sức khỏe, thông thường nữ giới yếu hơn nam giới nên
họ thích hợp với công việc nhẹ nhàng. Xét về mặt sinh lý, bước vào thời kỳ
lao động, phụ nữ phải trải qua các giai đoạn đặc biệt như thời kỳ thai nghén,
sinh con, cho con bú làm ảnh hưởng không nhỏ, thậm chí làm giảm sút sức
khỏe của họ. Ngoài ra, lao động nữ có thời kỳ phát triển thể chất, tinh thần,
thời kỳ lão hóa khác nam giới, nhu cầu ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí cũng khác.
Chính sự khác nhau của cấu tạo cơ thể về mặt sinh học mà lao động nữ có
chức năng riêng của mình, vừa là lao động sản xuất ra của cải vật chất, vừa là
lao động tái sản xuất sức lao động con người. Do đó, lao động nữ thường gặp
nhiều khó khăn trong công việc và điều này ảnh hưởng lớn tới sự phát triển
tài năng, sự thăng tiến của bản thân.
Xét về mặt tâm lý, phần lớn lao động nữ Việt Nam có bản tính rụt rè,
nhút nhát, chưa quen với tác phong làm việc công nghiệp. Lao động nữ ở 19
thành thị thường tự tin hơn, bản lĩnh hơn do có học thức, lại có điều kiện tiếp
xúc với môi trường làm việc năng động. Còn những vùng nông thôn nơi kinh
tế chưa phát triển đồng đều, lao động nữ vẫn có mặc cảm tự ti vì thiếu kiến
thức, thiếu thông tin. Các nghề như giúp việc gia đình, phục vụ nhà hàng,
phục vụ ăn uống, chăm sóc người già, người bệnh rất thích hợp với lao động
phổ thông và nhu cầu lao động trong các nghề này tương đối lớn; nhưng phần
đông chị em lại có định kiến mặc cảm với nghề, họ coi đó là những nghề thấp
kém. Khi không có trình độ học thức, hạn chế về mặt thông tin, tư tưởng an
phận phụ thuộc vẫn còn hiện hữu. Một số lao động nữ ở nông thôn muốn
thoát khỏi công việc đồng ruộng có tâm lý tìm kiếm việc làm ở những khu
công nghiệp phát triển. Người may mắn thì có việc làm tử tế với thu nhập ổn
định, phần đông còn lại đều gặp khó khăn, thậm chí rơi vào các tệ nạn xã hội
như ma túy, mại dâm hoặc bị bán qua biên giới

phu, phu tử tòng tử đã làm cho phụ nữ mất đi sự độc lập cần thiết, luôn
phụ thuộc vào gia đình và người gia trưởng. Điều đó khiến lao động nữ ít
quan tâm đến ngoài xã hội. Đã từ lâu, ngoài thiên chức làm mẹ, lao động nữ
luôn gắn với nghĩa vụ chăm lo đến các công việc gia đình, nuôi dạy con cái.
Những công việc này mất rất nhiều thời gian và họ ít có điều kiện để học
tập, trao đổi kiến thức nâng cao trình độ lành nghề khi tham gia vào các
quan hệ lao động.
Từ những đặc điểm mang tính đặc thù đó, lao động nữ đã gặp không ít
khó khăn khi tham gia vào các quan hệ lao động:
Thứ nhất: do thể lực yếu nên lao động nữ không làm việc được trong
những ngành nghề, công việc nặng nhọc, độc hại. Điều đó ảnh hưởng đến khả
năng lựa chọn việc làm của lao động nữ. Mặt khác, với thiên chức làm mẹ,
khi con bị ốm đau, lao động nữ thường phải nghỉ việc để chăm sóc con. Chính
trong thời gian này, do phải nghỉ việc nên thu nhập của lao động nữ tạm thời
bị gián đoạn. Thêm vào đó, kinh phí chữa bệnh tật cho bản thân hay trong
trường hợp con ốm tăng lên đáng kể. Do vậy, cần phải có nguồn đảm bảo cho

Trích đoạn Chế độ hưu trí hàng tháng Chế độ hƣu trí tự nguyện Công tác cán bộ
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status