Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn thịt ở nông hộ tại xã diễn phong – huyện diễn châu – tỉnh nghệ an - Pdf 28

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế nhưng
hiện nay vẫn còn khoảng hơn 60% dân số sống bằng nghề nông, trong đó
chăn nuôi là một trong những ngành trọng điểm để phát triển nông nghiệp ở
nước ta. Thực hiện chủ trương về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn, giá trị sản phẩm trong chăn nuôi ngày càng tăng lên, năm 2007
đã đạt 57.741 nghìn tỷ đồng gấp 3.75 lần giá trị sản phẩm chăn nuôi của năm
1995. Tỷ trọng giá trị sản phẩm của ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản
xuất nông nghiệp đã tăng từ 18.9% lên 24.4% [14]. Ngành chăn nuôi từng
bước trở thành một ngành sản xuất hàng hóa chiếm tỉ trọng lớn trong sản
xuất nông nghiệp và được coi là ngành mũi nhọn trong công tác xóa đói
giảm nghèo cho nông dân.
Trong chăn nuôi con lợn được coi là con vật dễ nuôi và được bà con
nông dân chăn nuôi nhiều. Lợn được xếp là loại ăn tạp, thích ứng với mọi
hoàn cảnh chăn nuôi, khả năng tăng trọng cao thời gian nuôi ngắn nên quay
vòng sản phẩm nhanh. Thịt lợn cẩn thiết cho nhu cầu dinh dưỡng, không chỉ
phù hợp với người dân Việt Nam mà còn phù hợp với nhiều nước trên thế
giới. Mức tiêu thụ thịt lợn tính trên đầu người ở nhiều nước trên thế giới
chiếm tỉ lệ cao so với các loại thịt khác.
Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn ở nước ta đã tăng trưởng
khá về tổng đàn, chất lượng đàn cũng như quy mô sản xuất,… Tuy nhiên, so
với yêu cầu và khả năng thì kết quả này còn khiêm tốn, chưa thực sự đi vào
sản xuất hàng hóa, chưa đáp ứng được nhu cầu kinh tế hiện nay. Nghề chăn
nuôi lợn là nghề truyền thống, nhiều nơi còn mang tập quán lạc hậu. Nhiều
vùng nông thôn chăn nuôi còn theo hình thức quảng canh, phân tán ở hộ gia
đình, không có điều kiện tăng quy mô, tổ chức và quản lý trong sản xuất còn
yếu, chủ yếu mang tính tự phát,… kết hợp với sự tác động của các yếu tố
bên ngoài như thị trường, dịch bệnh…làm cho hiệu quả chăn nuôi của các
nông hộ chưa cao. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu để tìm ra giải
pháp thích hợp thúc đẩy nghề chăn nuôi lợn phát triển, tạo chỗ đứng trong

được coi là mục tiêu để tăng thu nhập và có thể làm giàu.
Thời gian qua tổng đàn lợn trong cả nước luôn có sự tăng trưởng
nhưng không nhiều, tổng đàn từ 26,9 triệu con năm 2006 tăng lên 27,6 triệu
con năm 2009.
Bảng 1: Sản lượng lợn phân theo vùng ở Việt Nam năm 2006-2009
ĐVT: con
Vùng Năm
2006 2007 2008 2009
Cả nước 26855330 26560651 26701598 27627729
ĐBSH 7168775 6890453 6971850 7095707
Hà Nội 347128 349661 427378 1681953
Đông Bắc 4498272 4720265 4988258 5289789
Tây Bắc 1144398 1196020 1301479 1375584
Bắc Trung Bộ 3804678 3803649 3551052 3445825
DH Nam TB 2052053 2015792 2000169 2099099
Tây Nguyên 1386261 1451302 1557225 1636052
Đông Nam Bộ 2819010 2698274 27001575 2954846
ĐBSCL 3981883 3784896 362990 3730827
Nguồn: Tổng cục thống kê
Qua bảng số liệu trên ta thấy, số lượng lợn tăng nhanh ở một số vùng
như Hà Nội tăng từ 347 nghìn con năm 2006 lên 1,68 triệu con năm 2009,
vùng Đông Bắc tăng từ 4,498 triệu con lên 5,23 triệu con…Nhìn chung, số
3
lượng lợn ở một số vùng tăng nhẹ qua các năm, tuy nhiên một số vùng thì
vẫn giảm nhưng với số lượng ít như ĐBSCL giảm từ 3,98 triệu con năm
2006 xuống còn 3,73 triệu con năm 2009, Bắc Trung Bộ giảm từ 3,80 triệu
con xuống còn 3,44 triệu con. Nguyên nhân là do thời tiết, dịch bệnh xảy ra
ở nhiều vùng trong cả nước làm cho số lượng đàn lợn của một số vùng bị
giảm. [10]
Cơ cấu giống lợn hiện nay đã được cải thiện tích cực. hầu hết các

lượng và sản lượng thịt và thay đổi cả cơ cấu đàn. Những năm trước đây
ngành chăn nuôi lợn còn theo hình thức quảng canh, quy mô nhỏ của hộ gia
đình phân tán nhỏ lẻ là chủ yếu. Với hình thức chăn nuôi như vậy, sản phẩm
thịt lợn của tỉnh mới chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trong tỉnh mà chưa
phục vụ nhu cầu cho xuất khẩu. Tuy nhiên trong những năm gần đây, các
chương trình dự án phát triển chăn nuôi như cải tạo đàn lợn, chương trình siêu
nạc, phát triển trang trại có ảnh hưởng tích cực đến phát triển chăn nuôi lợn
của tỉnh. Ngoài ra, các chính sách về hỗ trợ khác như thú y, cho vay tín dụng,
công tác khuyến nông chăn nuôi cũng được tăng cường và mở rộng kết hợp
với các lớp tập huấn cho các hộ chăn nuôi đã góp phần lớn vào thúc đẩy
ngành chăn nuôi phát triển. Mặc dù vậy, hiện nay nhưng ngành chăn nuôi của
tỉnh cũng không tránh những ảnh hưởng của dịch bệnh như bệnh tai xanh, lở
mồm long móng…Do đó số lượng đàn lợn của tỉnh đang có xu hướng giảm.
Bảng 2: Diễn biến đàn lợn từ năm 2006-2010 của tỉnh Nghệ An
Danh mục Năm
2006 2007 2008 2009 2010
Tổng đàn (con) 1184580 1182885 1171269 1218314 1169574
Sản lượng thịt hơi (tấn) 94982 104018 111300 112799 130193
Số lượng lợn thịt (con) 1007590 994963 911128 966676 937177
Số lượng lợn nái (con) 176208 186944 259151 250470 230975
Nguồn: Thống kê tỉnh Nghệ An
Qua bảng số liệu trên ta thấy số lượng đàn lợn của tỉnh Nghệ An từ
năm 2006 đến năm 2010 tăng giảm theo từng năm, nhưng sự tăng giảm này
là không đáng kể, cụ thể là năm 2006, tổng đàn lợn toàn tỉnh là 1,18 tỉ con
sang năm 2009 tăng lên 1,21 tỷ con và giảm còn 1,16 tỷ con vào năm 2010.
Nhìn chung số lượng đàn lợn thịt, và lợn nái đang có xu hướng giảm. Điều
này chứng tỏ rằng số lượng đàn lợn bị ảnh hưởng lớn của thời tiết, dịch bệnh
và điều đó cũng nói lên rằng công tác thú y, các chương trình, chính sách
5
của tỉnh chưa có tác động mạnh mẽ để khuyến khích sự phát triển trong chăn

đảm bảo cho sự sinh trưởng và phát triển của đàn lợn. [17]
6
2.1.3.2 Mức độ phổ biến giống ngoại còn thấp.
Theo điều tra của IFPRI/Bộ NN&PTNT, 1999, khoảng 75% số hộ
chăn nuôi có nuôi lợn lai hoặc lợn ngoại, tỷ lệ này giao động từ 69%,ở các
hộ sản xuất quy mô nhỏ đến 90% các quy mô lớn. Việc nuôi lợn ngoại phụ
thuộc vào quy mô sản xuất và vùng lãnh thổ. Chỉ có khoảng 10% số hộ nuôi
quy mô nhỏ có lợn ngoại trong khi đó hơn 55% số hộ quy mô lớn có nuôi
lợn ngoại.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ phổ biến các giống vật
nuôi nhập nội không phù hợp với điều kiện chăn nuôi ở các hộ chăn nuôi sản
xuất nhỏ. Các hộ chăn nuôi nhỏ thường sử dụng các loại thức ăn thô(55,5%),
xanh(42%), có bổ sung thêm thức ăn tinh trong khẩu phần(2,4%).[17]
2.1.3.3 Điều kiện chuồng trại
Các giống khác nhau, quy mô khác nhau thì điều kiện chuồng trại
cũng khác nhau. Ở nước ta chăn nuôi lợn theo quy mô lớn thì khâu đầu tư
đầu tiên là điều kiện chuồng trại phải đảm bảo nhưng vẫn đang chiếm số ít.
Các hộ nuôi quảng canh quy mô nhỏ, giống địa phương, nuôi theo cách tận
dụng thì chuồng trại đa số
2.1.3.4 Hộ chăn nuôi còn thiếu thông tin.
Do sản xuất chăn nuôi còn manh mún, phân tán, chưa có thị trường
bán buôn thực thụ nên các hộ chăn nuôi thường phải bán các sản phẩm cho
thương lái và các chủ thu gom trung gian, dễ bị ép giá. Bên cạnh đó, thông
tin đại chúng chưa cung cấp tốt thông tin về thị trường chăn nuôi, trên 80%
nguồn thông tin chủ yếu của người chăn nuôi về giá cả thị trường do các
thương lái cung cấp và liên lạc cá nhân không tránh khỏi thông tin bị bóp
méo.
2.1.3.5 Giá thành Chăn nuôi ở Việt nam còn cao
Thức ăn gia súc chiếm tỷ trọng cao nhất trong tất cả các loại chi phí
trong sản xuất chăn nuôi. Ở nước ta hiện nay, tỷ trọng này chiếm khoảng

công tác phòng và chữa bệnh cho gia súc. [17]
2.1.3.7 Đặc tính kinh tế kỹ thuật của chăn nuôi lợn thịt
Thịt lợn là sản phẩm chính của chăn nuôi lợn thịt, nhu cầu về thịt nạc
ngày càng cao, chênh lệch giữa thịt nạc và thịt mỡ ngày càng lớn. Trình độ
khoa học kỹ thuật cũng như khả năng đầu tư ngày càng cao. Vì vậy, để chăn
nuôi lợn thịt đạt kết quả cao cần chọn giống tốt để nuôi và phải áp dụng các
tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi. Đồng thời cần chú ý đến nhu cầu thị
8
trường, thị hiếu của khách hàng. Để phục vụ xuất khẩu phải chăn nuôi lợn
ngoại thuần, lợn lai và lợn có tỷ lệ máu ngoại cao, thị trường nội địa có thể
nuôi lợn lai kinh tế.
Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của chăn nuôi lợn.
Lợn là động vật phàm ăn, có khả năng chịu đựng kham khổ cao. Lợn
có bộ máy tiêu hóa tốt, do đó có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau
như thức ăn tinh, thô, rau các loại… Nguồn thức ăn của lợn rất đa dạng, có
thể tận dụng các phụ phế phẩm trồng trọt, ngành công nghiệp chế biến nông
sản, thủy sản, lương thực thực phẩm… Khả năng tiêu hóa tốt nên ít tiêu tốn
thức ăn cho 1kg tăng trọng. Do vậy, lợn rất phù hợp cho chăn nuôi nông hộ.
Lợn dễ bị bệnh, độ rủi ro cao do khí hậu thời tiết, thiên tai, bão lụt,
hạn hán…ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của lợn. Mặt khác, giá cả đầu
vào, đầu ra luôn biến đổi mạnh do cạnh tranh thị trường và cung cầu thị
trường.
Sản xuất hàng hóa lượng thức ăn công nghiệp cao đòi hỏi có nguồn
vốn lớn, đặc biệt là vốn cố định để xây dựng chuồng trại. Vốn ở đầu mỗi chu
kỳ sản xuất là rất cần thiết, khi sản xuất thâm canh chu kỳ sản xuất ngắn nên
thu hồi vốn nhanh.
Nhìn chung đối với lợn thịt, chuồng trại cần thoáng mát, có mật độ
thích hợp, lợn phải được tiêm phòng trước khi đưa vào nuôi thịt, nếu không
phải tiêm bổ sung để bảo vệ an toàn khỏi dich bệnh. Lợn thịt có sự thay đổi
khá nhanh về trọng lượng do đó nhu cầu dinh dưỡng thức ăn cần thay đổi

động, thức ăn, chuồng trại… cho con lợn khác nhau. Với hình thức chăn
nuôi theo phương thức truyền thống tận dụng các phụ phẩm của nông
nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt gia đình thì chất lượng thức ăn không đảm
bảo, lợn tăng trọng không cao, chất lượng sản phẩm kém. Ngược lại, chăn
nuôi theo phương thức công nghiệp, hiệu quả kinh tế cao hơn. Hiệu quả kinh
tế thu được của các phương thức chăn nuôi khác nhau là khác nhau. Do đó
hình thức tổ chức chăn nuôi là yếu tố quyết định ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh tế trong chăn nuôi lợn.
Thị trường
Đối với người sản xuất vấn đề thị trường đầu ra là vấn đề có ý nghĩa
quyết định. Các sản phẩm của nông nghiệp muốn bảo quản lâu phải qua sơ
chế. Sản phẩm của chăn nuôi lợn thuộc loại tươi sống, bởi vậy nó không có
khả năng dự trữ lâu dài nếu không qua chế biến. Mặt khác do chu kỳ chăn
nuôi rất ngắn nên không xuất chuồng đúng kỳ hạn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
kết quả và hiệu quả chăn nuôi (tăng chi phí giảm chất lượng thịt). Do đó, thị
10
trường là một yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả phát triển
chăn nuôi không chỉ của hộ mà còn ảnh hưởng lớn đến cả một vùng sản xuất
chăn nuôi .
Vốn đầu tư
Dù sản xuất kinh doanh bất kỳ một mặt hàng nào thì vốn đầu tư ban
đầu cũng quan trọng. Trước đây bà con nông dân thường xuyên chăn nuôi
theo phương thức truyền thống tận dụng “cơm thừa canh cạn” thì vốn đầu tư
ban đầu không phải là yếu tố quan trọng. Nhưng ngày nay chăn nuôi ngày
càng phát triển, đặc biệt là chăn nuôi lợn với quy mô ngày càng lớn thì vốn
đầu tư ban đầu có ảnh hưởng lớn đến chăn nuôi. Vốn đầu tư ban đầu để mua
giống, thức ăn, xây dựng cơ sở vật chất ban đầu, trang thiết bị cho sản xuất
chăn nuôi….
Lao động
Bất cứ một công việc gì được làm thì đều cần có sự tác động của con

lượng sản phẩm khác nhau. Đối với chăn nuôi lợn các giống lợn lai, lợn
ngoại có tốc độ sinh trưởng phát triển nhanh hơn các giống lợn địa phương.
Do đó các loại giống có tác động đến nhu cầu thị trường khác nhau. Ở nước
ta hiện nay các hộ nông dân đang nuôi lợn nội là chủ yếu nên cần có phương
pháp tiến hành cải tạo nâng cao tầm vóc, có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn để
vừa thu hút và đáp ứng nhu cầu thị trường hơn, từ đó tăng hiệu quả chăn
nuôi.
Thức ăn là nền tảng của phát triển chăn nuôi lợn. Tuỳ theo đặc tính
sinh lý của mỗi gia súc mà yêu cầu về thức ăn thường khác nhau và cách
chuyển hoá sản phẩm cũng khác nhau. Đối với chăn nuôi lợn, lượng thức ăn
với các thành phần dinh dưỡng khác nhau phải phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của con lợn.
Bên cạnh vấn đề thức ăn chúng ta còn phải lưu ý đến vấn đề chăm sóc
và nuôi dưỡng. Quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng ảnh hưởng đến hiệu quả
của sản xuất chăn nuôi lợn, từ thời gian cho ăn, tuổi vận động, tuổi cai
sữa….phải phù hợp với con lợn trong các giai đoạn, thời kỳ, và mục đích
chăn nuôi khác nhau.
Công tác thú y có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nước ta có khí hậu
nhiệt đới nóng ẩm là môi trường thuận lợi cho dịch bệnh phát triển mạnh,
đặc biệt trong giai đoạn hiện nay dịch bệnh trên gia súc đang hoành hành.
Do đó dịch bệnh đã gây thiệt hại lớn đến các hộ chăn nuôi, đến thị trường
12
sản phẩm. Ở nước ta lợn thường bị một số bệnh như tụ huyết trùng, ỉa chảy
ở lợn con, phó thương hàn và hiện nay là bệnh tai xanh đã ảnh hưởng đến
năng suất và thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước. Mặt khác,
mạng lưới thú y còn mỏng từ trung ương đến địa phương nên công tác
phòng bệnh chưa được thực hiện tốt là nguyên nhân dịch bệnh xảy ra, lan ra
diện rộng ở nhiều vùng trong nước gây thiệt hại lớn. Thực hiện tốt công tác
này sẽ tạo điều kiện tốt cho các hộ chăn nuôi đầu tư phát triển đàn lợn. [14]
2.3. Hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn

kinh tế đó.
a, Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
Theo định nghĩa nêu trên về hiệu quả kinh tế thì hiệu quả kinh tế có 4
công thức cơ bản sau:
Công thức 1: H = Q/C Trong đó: H: Hiệu quả, Q: Kết quả thu được,
C: Chi phí bỏ ra
Công thức 2: H = Q – C
Công thức 3: H= ∆Q / ∆C.
Trong đó H: Hiệu quả, ∆Q: Chênh lệch kết quả thu được, ∆C: Chênh
lệch chi phí bỏ ra
Công thức 4: H = ∆Q - ∆Q .
Mặc dù có 4 công thức tính nhưng mỗi công thức đều có ý nghĩa
riêng. Công thức so sánh tuyệt đối chỉ có ý nghĩa khi việc so sánh tương đối
ổn định. Nó phản ánh được quy mô của hiệu quả nhưng lại không cho biết
hiệu quả, không phản ánh được hiệu quả của đồng vốn bỏ ra. Công thức so
sánh tương đối được sử dụng phổ biến hơn vì nó cho biết mức độ hiệu quả,
giúp chúng ta so sánh rộng rãi. Tuy nhiên nhược điểm của công thức này
không phản ánh được quy mô của hiệu quả.
Như vậy, mỗi công thức so sánh tuyệt đối và so sánh tương đối ở trên
đều có ưu và nhược điểm riêng của nó. Do đó, khi xem xét hiệu quả kinh tế
cần phải kết hợp cả hai công thức tính để chúng bổ sung cho nhau, làm tăng
ưu điểm và hạn chế nhược điểm.
b, Kết quả và chi phí được xác định bằng các tiêu thức khác nhau.
* Kết quả có thể biểu hiện là: Tổng giá trị sản xuất (GO), tổng giá trị
14
gia tăng (VA), thu nhập hỗn hợp (MI), ∆GO, ∆VA, ∆MI.
*C có thể biểu hiện là: Tổng chi phí sản xuất (TC), chi phí cố định
(FC), chi phí biến đổi (VC), chi phí trung gian (IC), chi phí lao động (L),
hoặc mức đầu tư các yếu tố chi phí.
c, Để đánh giá hiệu quả kinh tế thường dựa vào 2 hệ thống chỉ tiêu

Trong đó Cj: là khoản chi phí thứ j trong chu kỳ sản xuất.
- Giá trị gia tăng (VA): Là chênh lệch giữa giá trị hàng hoá được sản
xuất và chi phí nguyên liệu, phụ tùng để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị gia
tăng bao gồm phần tiền lương, lãi tiền vay và lợi nhuận mà hãng hay ngành
cộng thêm vào giá thành của đầu ra.
VA = GO – IC
- Thu nhập hỗn hợp (MI): là phần thu nhập của người sản xuất bao
gồm thu nhập của công lao động và lợi nhuận của sản xuất trong một chu kỳ
sản xuất.
15
MI = VA – (A+T)
Trong đó: A: Giá trị khấu hao tài sản cố định và chi phí phân bổ
T: Thuế tái sinh cần đóng góp cho nhà nước
Nhà nước bãi bỏ thuế tái sinh đối với chăn nuôi lợn, bởi vậy:
MI =VA – A
- Khấu hao tài sản cố định là giá trị của tài sản cố định bị hao mòn
trong quá trình sản xuất sản phẩm, được trích ra để đưa vào chi phí sản xuất
hàng năm.
- Lợi nhuận (Pr): là phần lãi ròng thu nhập hỗn hợp của một chu kỳ
sản xuất kinh doanh.
Pr = MI-∑(Li*Pi)
Trong đó: L: là số công lao động loại I đã sử dụng để sản xuất trong
một chu kỳ.
Pi: Giá thuê một công lao động loại i.
16
PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Chọn điểm nghiên cứu
Căn cứ vào tình hình phát triển chăn nuôi lợn ở xã và cơ cấu hình thức
tổ chức chăn nuôi lợn ở hộ. Căn cứ vào yêu cầu nghiên cứu của đề tài, chúng
tôi đã tiến hành điều tra các hộ chăn nuôi lợn trên địa bàn 2 thôn: Tây Hồ và

trung bình và 20 hộ nghèo để điều tra về tình hình chăn nuôi lợn của xã Diễn
Phong như: quy mô, loại giống, chi phí sản xuất, tổng thu nhập, và tìm hiểu
các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn của các nhóm
hộ.
3.4. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu thu thập đã được mã hoá và xử lý trên máy vi tính bằng
phần mềm Excel.

18
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Tình hình cơ bản của xã Diễn Phong
4.1.1 Vị trí địa lý và địa hình
Diễn Phong là xã nằm ở vị trí trung tâm của Huyện Diễn Châu, gần
quốc lộ 1A, cách thành phố Vinh 45km về phía Bắc, do đó việc lưu thông
hàng hoá rất thuận tiện.
Phía Đông giáp với xã Diễn Mỹ và Biển Đông, phía Tây giáp với xã
Diễn Hồng và huyện Yên Thành, phía Bắc giáp với Diễn Yên và huyện
Quỳnh Lưu, phía Nam giáp với xã Diễn Vạn. Tổng diện tích đất tự nhiên
của xã là 411,51ha. [15]
Diễn Phong nằm ở khu vực có địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai
màu mỡ nên cũng khá thuận lợi cho việc sản xuất nhiều loại cây lương thực
và cây hoa màu khác nhau.
Toàn xã có 7 thôn là: Đậu Vinh, Nha Nghi, Dương Tiên, Đông Tác,
Dương Đông, Dương Đoài và Tây Hồ. Xã có ba thôn giáp với sông Vách
Bắc, tuy nhiên giao thông đường thuỷ ở đây không phát triển. Nằm sát sông
rất thuận lợi cho công tác thuỷ lợi phục vụ cho phát triển nông nghiệp. Khu
Chợ Dàn gần với nhiều nhà máy xí nghiệp thuận lợi cho buôn bán.
4.1.2 Về khí hậu thời tiết
Khí hậu thời tiết của xã mang tính chất chung của thời tiết huyện Diễn
Châu là nằm trong khu vực nhiệt đới, nóng ẩm, quanh năm có gió mùa, nhận

đới gió mùa nên chịu nhiều ảnh hưởng của gió mùa đông bắc, dông, bão…
gây những trở ngại nhất định trong đời sống và sản xuất của người địa
phương. Đồng thời cũng ảnh hưởng nhiều đến hoạt động chăn nuôi của
người dân như làm vật nuôi bị mắc bệnh, chết… hay mất mùa ảnh hưởng
đến nguồn thức ăn cho ngành chăn nuôi trong toàn xã.
4.1.3 Tình hình kinh tế - xã hội

Tình hình kinh tế
Mặc dù có vị trí địa lý tương đối thuận lợi cho việc phát triển các
ngành nghề dịch vụ và phi nông nghiệp khác, tuy nhiên hoạt động sản xuất
chính ở đây vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, với tổng thu nhập từ ngành
nông nghiệp năm 2010 ước đạt 26tỷ đồng chiếm 45,2% tổng thu nhập toàn
xã với 85% dân cư sống bằng sản xuất nông nghiệp, 15% ngành nghề dịch
vụ và buôn bán nhỏ.
Về trồng trọt, cây trồng chủ lực của địa phương là trồng lúa và cây hoa
màu như: lạc, dưa hấu, bí…, với năng suất bình quân của lúa đạt 6.8 tấn/ha,
lạc trồng 1 đến 2 vụ/năm với năng suất bình quân đạt 2 tấn/ha. Đặc biệt trên địa
bàn xã có hợp tác xã sản xuất và cung cấp giống nên 100% nông dân đã sử
20
dụng giống lúa Hải Phong và QU14 và đưa vào các giống mới nên năng suất đã
được tăng lên và góp phần giúp ổn định đời sống của người dân.
Về chăn nuôi, tính đến thời điểm cuối năm 2010 tổng đàn trâu, bò là
559 con, giảm 44 con so với năm 2009 ; Tổng đàn lợn toàn xã là 3872 con
(trong đó, đàn lợn thịt là 2185 con, đàn lợn nái 1104 con) giảm 583 con so
với năm 2009, đàn gia cầm khoảng 16000 con. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây trên địa bàn xã nói riêng và huyện Diễn Châu nói chung dịch bệnh
liên tục xảy ra, do vậy về quy mô chăn nuôi đang có xu hướng giảm. Đây thật
sự là khó khăn rất lớn cho người chăn nuôi.
Về nuôi trồng thuỷ sản, toàn xã có diện tích ao hồ khoảng 13 ha; sản
lượng cá thu hoạch trong năm 2009 ước đạt 8 tấn.

- Lợn - - - 2012,6
- Gia cầm - - - 2126,0
III. THỦY SẢN
- Cá ao hồ 13 3,4 44,2 884,0
- Cá lúa 11 0,6 6,6 165,0
IV. CNXD & DV - - - 22400,0
V. LĐVL & XKLĐ - - - 21840,0
(Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế hàng năm của xã, năm 2010)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, thu nhập từ trồng trọt là rất lớn và mang
lại hiệu quả kinh tế cao. Việc sản xuất nông nghiệp ở đây không chỉ cung
cấp đủ nhu cầu cho người dân trong xã, mà còn cung ứng ra thị trường ngoài
tỉnh, nhất là các sản phẩm từ rau màu và các cây có giá trị như dưa hấu, lạc
Hiệu quả kinh tế từ ngành trồng trọt cao là do đất đai ở đây khá màu
mỡ, đồng thời người dân áp dụng tốt các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất từ các
dự án của tỉnh đưa về.
Chăn nuôi là một trong những ngành có tiềm năng để phát triển, tuy
nhiên hiệu quả kinh tế từ ngành chăn nuôi của xã trong năm 2010 còn thấp.
Nhất là chăn nuôi lợn thịt.
Về thủy sản, công nghiệp xây dựng - dịch vụ và ngành xuất khẩu lao
động vẫn đang phát triển và đạt hiệu quả càng cao qua mỗi năm. Những
ngành này đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của Diễn Phong góp phần
vào sự phát triển chung của huyện.

Tình hình xã hội:
Bảng 4: Tình hình dân số và lao động của xã Diễn Phong
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
SL % SL % SL %
Tổng số dân Người 4609 100 4673 100 4754 100
Tổng số hộ Hộ 1273 100 128
6

phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây do thời tiết, khí hậu, dịch bệnh… mà tình hình chăn nuôi của xã có xu
hướng giảm, nhất là chăn nuôi lợn, vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến việc
phát triển kinh tế của người dân. Do đó họ thường chú trọng và trồng trọt
hơn là chăn nuôi. Mặc dù vậy nhưng xã cũng đã có những đóng góp đáng kể
vào sự phát triển chung của huyện Diễn Châu.
4.2 Tình hình chăn nuôi lợn thịt tại xã
4.2.1 Kết quả chăn nuôi lợn của xã Diễn Phong qua các năm
23
Trong những năm qua vừa thực hiện chủ trương chính sách của Đảng
và Chính phủ, thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn, tình hình chăn nuôi của xã đã có nhiều sự thay đổi đáng kể, đưa
chăn nuôi dần trở thành ngành nghề chính thúc đẩy phát triển nông thôn như
đóng góp 53,7% vào tổng GDP, giải quyết việc làm cho 35,2% tổng số lao
động trong toàn xã và tăng thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, trong một số
năm trở lại đây, tình hình chăn nuôi đặc biệt là chăn nuôi lợn của xã có
nhiều biến động về số lượng và sản lượng.
Bảng 5: Tình hình chăn nuôi lợn của xã Diễn Phong qua các năm
Chỉ tiêu ĐVT 2008 2009 2010
SL Tỷ lệ
(%)
SL Tỷ lệ
(%)
SL Tỷ lệ
(%)
1.Tổng số lợn Con 4381 100 3872 100 3289 100
- Lợn thịt Con 3205 73.1 2764 71.4 2285 69.5
- Lợn nái Con 1176 26.9 1108 29.6 1104 31.5
2.Sản lượng lợn hơi
XC

Mặc dù có sự giảm về số lượng và sản lượng đàn lợn thịt, số hộ chăn
nuôi lợn thịt thì cũng có sự tăng giảm nhưng không đáng kể. Đối với hộ khá
và hộ trung bình thì số lượng hộ nuôi lợn tương đối ổn định qua các năm.
Năm 2008, có 390 hộ khá tham gia hoạt động chăn nuôi lợn thịt chiếm tỷ lệ
35,2% đến năm 2010 có 388 hộ chiếm tỷ lệ 37.2%. Và hộ trung bình là 530
hộ chiếm tỷ lệ 47,9 % trong năm 2008, đến năm 2010 giảm đi 5 hộ xuống
còn 525 hộ, tuy nhiên vẫn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số hộ chăn nuôi lợn thịt
năm 2010.
Đối với hộ nghèo thì tất cả các hộ đều có hoạt động chăn nuôi lợn thịt.
Năm 2008, toàn xã có 143 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 12,9% tổng số hộ chăn nuôi
lợn, đến năm 2010 giảm còn 111 hộ nghèo và tất cả các hộ này đều chăn
nuôi lợn thịt chiếm tỷ lệ 10,8% trong tổng số hộ chăn nuôi lợn thịt.
Nhìn chung, tình hình chăn nuôi lợn của xã Diễn Phong trong một số
năm trở lại đây giảm sút nghiêm trọng về số lượng, sản lượng và cả về thu
nhập. Điều đó cũng cho chúng ta thấy được việc phát triển chăn nuôi đàn lợn
của xã chưa đúng hướng, công tác thú y chưa được chú trọng và hiệu quả
kinh tế trong chăn nuôi lợn cũng không cao. Vì vậy, đây là một điều đòi hỏi
chính quyền địa phương cần quan tâm hơn nữa đến việc phát triển đàn lợn
trong toàn xã nhằm góp phần đưa chăn nuôi trở thành ngành chính thức thúc
đẩy phát triển kinh tế cho người dân nói riêng và của xã nói chung.
4.2.2 Diễn biến tình hình chăn nuôi lợn thịt tại hai thôn qua các năm
25

Trích đoạn Đầu tư trong chăn nuôi lợn thịt Thị trường tiêu thụ Tăng cường chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho người dân Tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status