Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua thực tế một số trường đại học và cao đẳng ở thành phố Hà Nội) - Pdf 28

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ 21, thế kỷ của
sự bùng nổ về thông tin khoa học và kỹ thuật hiện đại, tiên tiến nhất từ trước
đến nay. Những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong những năm gần đây
đã làm thay đổi cuộc sống của nhiều dân tộc trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia thuộc các nước đang phát triển về mặt kinh
tế, lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài. Song, dưới tác động của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, Việt Nam cũng đang từng ngày
từng giờ thay đổi diện mạo của mình.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau
gần 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu đáng tự hào.
Về cơ bản, chúng ta đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã
có sự tăng trưởng về kinh tế, phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ
đối ngoại, tình hình kinh tế chính trị cơ bản là ổn định, quốc phòng an ninh
được tăng cường, thế và lực ngày càng được củng cố và phát triển.
Kinh tế thị trường đã đem lại cho ta những điều "kỳ diệu" trong sự
phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên nó cũng là mảnh đất màu mỡ nảy sinh lối
sống ích kỷ, vụ lợi, những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đã và đang
từng ngày, từng giờ làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống. Mặt trái của cơ chế thị
trường đã tạo ra một bộ phận không nhỏ lớp người trong xã hội nói chung,
một bộ phận thanh niên, sinh viên nói riêng có lối sống chạy theo đồng tiền,
buông thả, quay lưng với văn hóa, với truyền thống dân tộc.
1
Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội, vừa phát triển kinh tế thị trường,
đồng thời phải bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa VII,
nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: Phát triển tách khỏi cội nguồn

nhiều công trình nghiên cứu ở dưới các góc độ khác nhau, một số bài viết đã
đề cập đến khía cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề, cụ thể như: "Giá trị
tinh thần truyền thống Việt Nam" do Trần Văn Giàu chủ biên, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1980; "Biện chứng của truyền thống" của Hà Văn Tấn, Tạp
chí Cộng sản, số 3-1981; "Về truyền thống dân tộc" của Trần Quốc Vượng,
Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự
nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta" của Đỗ Huy, Tạp chí Thông tin
Khoa học xã hội, số 5-1986; "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại" của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí
Triết học, số 4-1992; "Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam
trong điều kiện kinh tế thị trường" do Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội,
1994; "Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị" do Nguyễn
Quang Uẩn chủ biên, tháng 4-1995; "Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và
những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên", Đề tài
nghiên cứu khoa học, mã số B94-38-32 do Mạc Văn Trang chủ biên (Viện
nghiên cứu phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo), 1995; "Sự biến đổi
định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường"
của Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết học, số 5-1995; "Quan hệ kinh tế và đạo
đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt,
Tạp chí Triết học, 6-1996; "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với
đạo đức người cán bộ quản lý" của Nguyễn Tĩnh Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý
3
luận, 2-1997; "Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ đạo đức trong cơ
chế thị trường ở nước ta hiện nay" của Đỗ Huy, Tạp chí Triết học, số 5, 1998;
"Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong
nền kinh tế thị trường" của Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, số 5, 1998; "Vấn
đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển" của Nguyễn Trọng
Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2, 1998; "Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Luận án
tiến sĩ Triết học của Trần Sĩ Phán, 1999; "Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội và nguyên
nhân của nó, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, từ đó xác
định tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh
viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất phuơng hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay (qua thực tế thành phố Hà Nội).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề giáo
dục đạo đức truyền thống cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà
Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện bản luận văn này tác giả dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống.
Ngoài ra, tác giả luận văn có tham khảo, kế thừa các thành tựu của các công
trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài.

CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1.1. Giá trị và giá trị đạo đức truyền thống
Thuật ngữ "giá trị" ra đời cùng với sự ra đời của triết học. Nói cách
khác, ngay từ đầu, gắn với triết học đã có những hiểu biết về giá trị và giá trị học.
Trước thế kỷ XIX, những kiến thức về giá trị học đã gắn liền với những tri thức
triết học. Sau này, khi khoa học có sự phân ngành, thì giá trị học tách ra thành
một môn khoa học độc lập và thuật ngữ giá trị được dùng để chỉ một khái niệm
khoa học.
Khái niệm "giá trị" trở thành trung tâm của giá trị học, nó được sử
dụng trong các lĩnh vực như: triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học,
kinh tế học... Trong lĩnh vực kinh tế học, "giá trị" chỉ sức mạnh của vật này
khống chế lại vật khác khi trao đổi với nhau, để bộc lộ giá trị thì vật phẩm
được làm ra đó phải có ích cho cuộc sống con người và đáp ứng được nhu cầu
của con người. Chính vì lẽ đó trong kinh tế, giá trị là yếu tố hàng đầu. C.Mác
viết: "Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động là một lao động được
nhân lên cấp số nhân, hay là một khoảng thời gian như nhau, nó tạo ra giá trị
cao hơn so với một lao động giá trị trung bình cùng loại" [40, tr. 104-105].
Trong triết học, chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi giá trị là hiện tượng
của ý thức, là biểu tượng của thái độ chủ quan của con người đối với khách
thể mà người đó đang đánh giá.
8
Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử của
giá trị, đồng thời khẳng định giá trị có thể nhận thức được và giá trị có tính
thực tiễn. Tất cả mọi cái gọi là giá trị đều có nguồn gốc xuất phát từ chính
cuộc sống lao động thực tiễn của con người. Do vậy, có thể nói, chỉ trong xã
hội loài người mới có cái gọi là giá trị. Và chính "con người là giá trị cao nhất
của mọi giá trị là thước đo của mọi giá trị. Đầu tư vào con người là cơ sở chắc
chắn nhất cho sự phát triển người kinh tế - xã hội" [66, tr. 11]

góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, giá trị không phải là một cái gì nhất thành bất biến mà nó
luôn vận động biến đổi theo thời gian và không gian sao cho phù hợp trong
từng thời điểm nhất định. Chính vì vậy, trên thực tế không phải những cái gì
đã có giá trị trong quá khứ đều giữ nguyên giá trị đối với hiện tại. Điều đó cho
thấy giá trị mang tính lịch sử khách quan, sự ra đời tồn tại hay mất đi của một
giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức của con người mà do yêu cầu của
từng thời đại nhất định trong lịch sử.
Thứ ba, giá trị đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã
hội, giá trị giúp con người điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống, giá
trị giúp con người định hướng và xác định mục đích cho hành động của mình,
là động cơ thúc đẩy hoạt động của con người.
Trên thực tế đã có rất nhiều cách phân loại giá trị. Dựa vào tiêu chí
mục đích phục vụ cho nhu cầu của con người, người ta chia ra làm hai loại giá
trị: Giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thể hiện rõ nét trong đời sống kinh tế, nó quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh thần là những phẩm
10
chất đặc biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư
tưởng, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, phong tục tập quán... Những phẩm chất
đó ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống tinh thần và chúng trở thành các chuẩn
mực để con người đánh giá phân biệt cái đúng, cái sai, cái xấu, cái đẹp trong
đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người với con người, con người
với xã hội.
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống
xã hội và được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng
xử giữa con người với con người, con người với xã hội, chúng được thực hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị
đạo đức biến đổi theo sự biến đổi của đời sống xã hội.
Về khái niệm truyền thống, trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều quan

mà phải cải tạo nó rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài"
Hiểu theo nghĩa thứ nhất, truyền thống trở thành một bộ phận thiết
yếu của đời sống con người. Nó góp phần duy trì, bảo vệ và phát triển cuộc sống
của chúng ta. Tóm lại, sự nhận thức truyền thống không tách rời nhận thức các giá
trị.
Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ giá trị
tinh thần của dân tộc Việt Nam, nó là nhân lõi, là sức sống bên trong của dân
tộc. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của
dân tộc được xác định là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng,
những quy tắc ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với tự
nhiên (mà ngày nay ta gọi là giá trị đạo đức sinh thái). Đặc điểm cơ bản của
truyền thống nói chung, giá trị đạo đức truyền thống nói riêng là sự kế thừa.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã rèn luyện
và tạo nên những thế hệ người Việt Nam giàu lòng yêu nước, yêu thương con
người, cần cù, thông minh, sáng tạo, chịu thương, chịu khó... Những đức tính
12
đó đã trở thành những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà hàng
ngàn đời nay chúng ta vẫn nâng niu quý trọng.
Nói đến giá trị truyền thống của một cộng đồng dân tộc, chính là nói
đến truyền thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc đó. Nó chính là những giá trị
bình ổn, tốt đẹp, có thể lưu truyền từ đời này qua đời khác, là những cái cần
được giữ gìn phát huy phát triển cho phù hợp với xã hội hiện tại.
Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền
thống là một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị
tinh thần đó. Chính vì vậy, khi nói đến những giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc ta, là nói đến những phẩm chất tốt đẹp, quý báu đã được hình thành và bảo
lưu trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc ta được cô đúc, được thử thách và tái tạo qua nhiều thế hệ
khác nhau, theo những bước thăng trầm của lịch sử, nó chứa đựng một tiềm
năng hết sức to lớn và bền vững, nó chính là sức mạnh vốn có của dân tộc

tưởng này vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, nhưng ít nhiều nó cũng
ảnh hưởng đến những truyền thống vốn có của ta, làm sâu đậm thêm truyền
thống nhân ái yêu thương con người của dân tộc Việt Nam.
Đạo Nho là một hệ thống quan điểm về thế giới, về xã hội và về con
người, là một học thuyết chính trị - đạo đức - xã hội (mà Khổng Tử là người
khởi xướng) đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống đạo đức của xã hội Việt
Nam. Những nội dung tư tưởng của Nho giáo như: Nhân; lễ; chính danh; tam
cương; ngũ thường... cũng dần thấm sâu vào đời sống, trở thành lối sống,
cách ứng xử ở đời của người Việt Nam và được Việt hóa.
14
Đạo gia của Lão Tử cũng góp phần làm phong phú thêm cho truyền
thống vốn có của dân tộc ta, nó góp phần làm mạnh mẽ thêm tinh thần đoàn
kết thân ái, gắn bó và tinh thần chống áp bức, đô hộ khi có thời cơ.
Văn hóa Việt Nam không chỉ giao lưu với văn hóa phương Đông mà
còn có sự giao lưu với văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Tuy
nhiên, khi các trào lưu văn hóa, tôn giáo đó du nhập vào Việt Nam đã được
nhân dân Việt Nam kế thừa có chọn lọc để hình thành nên những nét riêng
đặc trưng cho mình, nhưng cái riêng đó nó vẫn luôn ẩn chứa cái chung tạo
nên sự tương đồng trong việc hình thành nên các giá trị đạo đức của các dân
tộc khác trên thế giới.
Cho đến nay, văn hóa Việt Nam tuy có nhiều thay đổi trên nhiều phương
diện nhưng vẫn giữ được cốt cách, bản sắc văn hóa riêng của mình, hội nhập
mà không hòa tan, không đánh mất mình và vẫn giữ được những giá trị đạo
đức truyền thống tốt đẹp quý báu của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) "Về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", đã khẳng định:
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá
trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng
nàn; lòng tự tôn, tự cường dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết cá

16
của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị
đạo đức của dân tộc ta" [48, tr. 74].
Tất cả mọi dân tộc trên thế giới đều có tình cảm yêu quê hương đất
nước mình. Nhưng đối với dân tộc Việt Nam, tình yêu quê hương đất nước
là một thứ tình cảm hết sức thiêng liêng, nó xuất phát từ ý thức cộng đồng
gắn bó keo sơn. Mỗi người dân Việt Nam, đều đặt lợi ích của Tổ quốc lên
trên hết, khi có giặc ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh thân mình, lúc hòa bình
biết chăm lo xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Lòng yêu nước của
dân tộc ta đã trở thành triết lý sống, triết lý nhân sinh, trở thành chủ nghĩa
yêu nước. GS. Trần Văn Giàu có viết: "Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm của
bản thân lịch sử Việt Nam được bắt đầu từ tình cảm tự nhiên của mỗi người
đối với quê hương mình tiến lên thành lý tưởng và hệ thống tư tưởng làm
chủ của nhận thức đúng sai, tốt xấu, nên chăng và chỉ đạo rất nhiều phương
lược xây dựng và bảo vệ nước nhà" [21, tr. 7].
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã
gắn bó con người với thiên nhiên, với quê hương xứ sở của mình, chính vì
vậy truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ tình yêu đối
với quê hương làng xóm, yêu cây đa, bến nước, sân đình, nơi có ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, bạn bè, bà con hàng xóm, nơi có mồ mả tổ
tiên. Nơi con người hàng ngày vất vả chiến đấu với thiên nhiên để duy trì và
xây dựng cuộc sống.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại
xâm. Vì vậy, yêu nước trước hết là tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm
của dân tộc. Cho dù ở hoàn cảnh nào, nhân dân Việt Nam vẫn luôn kiên
cường bất khuất, "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ", già trẻ gái trai nhất tề đứng lên đánh giặc, "còn
cái lai quần cũng đánh". Chính vì vậy mà trải qua hơn một ngàn năm Bắc
17
thuộc, ông cha ta vẫn bám trụ đến cùng, giữ đất, giữ làng, gắn bó với mồ mả

Minh, truyền thống yêu nước được phát huy lên tầm cao mới thành lý tưởng:
sống, chiến đấu, lao động, học tập vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì
hạnh phúc của nhân dân...
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Truyền thống nhân ái - yêu thương con
người là một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, truyền
thống ấy có nguồn gốc sâu xa từ trong sinh hoạt công xã nông thôn, được
củng cố và phát triển qua quá trình chung lưng, đấu cật khai phá giang sơn,
giữ gìn đất nước. Tấm lòng nhân nghĩa, nhân ái đó chính là cơ sở cho cách xử
thế ở đời của người Việt Nam, là triết lý sống của dân tộc Việt Nam. Hết lòng
vì nghĩa cả, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, khó khăn mà không hề tính toán,
lên án mạnh mẽ những kẻ tàn ác "táng tận lương tâm", "phụ tình bạc nghĩa".
Từ trong sâu lắng của lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn luôn gắn tình
yêu quê hương đất nước với lòng nhân ái - yêu thương con người. Do vậy,
người Việt Nam luôn xả thân vì đất nước, con người yêu nước và con người
yêu dân gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc ta
luôn luôn đứng trước nguy cơ bị xâm lược và bị đồng hóa, hơn ai hết, chúng
ta hiểu rất rõ quyền sống của mình gắn với vận mệnh của Tổ quốc và dân tộc.
Lòng nhân ái nhân nghĩa của người Việt Nam còn thể hiện ở lòng vị
tha cao thượng, không cố chấp đối với những người lầm đường lạc lối, nhưng
biết lập công chuộc tội, trở về với chính nghĩa. Chính tư tưởng "lấy nhân
nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo" trong Bình Ngô đại
cáo của Nguyễn Trãi là sự thể hiện đỉnh cao của lòng nhân ái đó. Người Việt
Nam lấy tình yêu thương làm cách xử thế ở đời, đối với kẻ thù thậm chí còn
19
mở đường hiếu sinh khi thua trận, Vua Quang Trung sau khi đánh bại quân
Thanh còn cấp lương thảo và phương tiện cho đám tàn quân về nước.
Hồ Chủ tịch là hiện thân của lòng nhân ái, nhân nghĩa. Xuất phát từ
lòng thương yêu con người - người lao động, yêu quê hương đất nước, Bác đã
bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời mình, Bác hy
sinh cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đúng như nhà thơ Tố

mẽ hơn bao giờ hết.
Truyền thống nhân nghĩa nhân ái là một trong những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta. Nó là cái gốc của đạo đức, truyền thống này chính là
nguồn gốc sâu xa nhất, bền chặt nhất của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, chủ
nghĩa nhân đạo hiện thực chứ không phải chủ nghĩa nhân đạo chung chung
trừu tượng phi hiện thực, phi lịch sử, phi giai cấp của các giáo lý tôn giáo hay
theo cách hiểu của Phoiơbắc.
Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo là một giá trị đạo
đức có từ bao đời của dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triển
trong điều kiện, hoàn cảnh tự nhiên xã hội không ít những khó khăn khắc
nghiệt ngay từ những buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Về tự nhiên: liên tục xảy ra bão lụt hạn hán, về xã hội: liên tục chiến
tranh chống giặc ngoại xâm. Nhưng, trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc,
những người dân Việt Nam vẫn kiên trì bám đất, bám làng, vừa sản xuất vừa
đánh giặc để tồn tại và bảo vệ đất nước. Sống trong hoàn cảnh khó khăn gian
khổ như vậy, nhưng nhờ có đức tính cần cù và tiết kiệm, mà nhân dân ta đã vượt
qua, để từng bước tự khẳng định mình trên con đường phát triển của dân tộc.
Để có bát cơm thơm dẻo, người nông dân đã phải một nắng hai sương
"bán mặt cho đất bán lưng cho trời", hình ảnh người nông dân trong những
21
câu ca dao dân ca Việt Nam còn đó: "Trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng
cày vợ cấy con trâu đi bừa". Ông cha ta thường dạy con cháu phải biết quý
trọng thành quả lao động của con người: "Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm
một hạt đắng cay muôn phần".
Truyền thống cần cù của người Việt Nam luôn gắn với tiết kiệm, vì
vậy cần mà không kiệm thì khác nào: "Tiền vào nhà khó như gió vào nhà
trống". Nên ông cha ta thường nhắc nhở con cháu rằng: "Được mùa chớ phụ
ngô khoai. Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng". Hồ Chủ tịch đã nêu rõ: con
người phải có bốn đức tính: Cần, kiệm, liêm, chính, so sánh với bốn mùa của
trời, bốn phương của đất, nếu thiếu một đức thì không thành người:

Thấy rõ vai trò của yếu tố đoàn kết, cha ông ta luôn có ý thức chống
chính sách chia rẽ của các thế lực ngoại bang và xu hướng cát cứ của các thế
lực phong kiến. Từ chính sách "dùng người Việt đánh người Việt" của bọn
phong kiến phương Bắc đến chính sách "chia để trị" của thực dân Pháp, của
đế quốc Mỹ đều lần lượt bị thất bại trước tinh thần đoàn kết của nhân dân ta.
Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết đã trở thành điểm tựa tinh thần
vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng
như trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Xưa Nguyễn Trãi nói: "Chèo thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân" để
chỉ sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Dân là gốc, là nền tảng của sự tồn tại và
phát triển. Lúc sinh thời Bác Hồ từng nói: Dễ mười lần không dân cũng chịu,
khó trăm lần dân liệu cũng xong. Và: "Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm
thì làm chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà
làm thì phải nổi" [46, tr. 258]. Người còn khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công". Trước lúc đi xa, Người
23
còn căn dặn các cán bộ, đảng viên: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý
báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình" (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố năm 1969).
Truyền thống giáo dục - hiếu học của người Việt Nam được hình thành
từ nhiều thế hệ. Là người Việt Nam ngay từ thuở ấu thơ đã được sống trong
lời ru của mẹ:
"Qua sông phải bắc cầu Kiều,
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy".
Câu hát ru đó đã thể hiện truyền thống "Tôn sư trọng giáo" của người
Việt Nam.
Truyền thống "Tôn sư trọng giáo" là một nội dung trong học thuyết
của Khổng Tử, khi vào Việt Nam đã trở thành một nội dung đạo lý của người
Việt Nam. Học trò Việt Nam luôn ghi nhớ: "Cơm cha, áo mẹ, nghĩa thầy",

học sinh cả nước, tháng 9/1945).
Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập tự do. Mọi công dân đều có điều kiện bình đẳng để
thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ học tập. Mọi tầng lớp người Việt Nam đã
hăng hái tham gia chiến đấu và học tập theo lời kêu gọi của Đảng của Bác Hồ.
Tháng 10-1945, Chính phủ thành lập "Hội đồng cố vấn học chính" để nghiên
cứu chương trình cải cách giáo dục. Từ đó, ngành giáo dục nói chung, giáo
dục đào tạo đại học, cao đẳng nói riêng, của đất nước ta ngày càng phát triển.
Trong văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII đã nhấn mạnh:
Khâu then chốt để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục
là phải đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và tiêu chuẩn hóa đội
25

Trích đoạn Nguyên nhân của mặt hạn chế, yếu kém Quán triệt quan điểm của Đảng, đổi mới nhận thức đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống với hiện đại trong giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Xây dựng môi trường kinh tế xã hội trong sạch, lành mạnh tác động tích cực đến việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh Đưa môn "Đạo đức học" trở thành môn học bắt buộc trong trường đại học và cao đẳng
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status