Thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tai Ngân hàng InComBank Thanh Xuân - Pdf 28


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay xu thế toàn cầu hoá,quốc tế hoá đang trở thành xu hướng chủ
đạo chi phối mọi hoạt động kinh tế thế giới.Qua đó đang xoá dần đi cách biệt về
không gian,thời gian trong nền kinh tế. Điều này khiến sự cạnh tranh trở nên ngày
càng gay gắt trong mọi lĩnh vực.Sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính thì còn
quyết liệt hơn.Việc các tổ chức tài chính phi ngân hàng ngày nay cũng đang tích
cực tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ của ngân hàng khiến cho các ngân
hàng gặp nhiều khó khăn, để tồn tại các ngân hàng không ngừng mở rộng và nâng
cao chất lượng phục vụ.
Thẩm định tài chính dự án là một nghiệp vụ vô cùng quan trọng đối với
các ngân hàng thương mại.Kết quả của quá trình thẩm định dự án cho vay sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến quyết định có cho các doanh nghiệp vay vốn hay không,nó sẽ
ảnh hưởng đến quá trình đầu tư của doanh nghiệp,từ đó cũng sẽ ảnh hưởng đến
sự phát triển của nền kinh tế.
Ngay khi Việt Nam vừa bước chân vào cánh cửa WTO,thì đã có hàng
loạt các dự án,hàng loạt kế hoạch được vạch ra nhằm đưa Việt Nam tiến một
bước dài về kinh tế.Các doanh nghiệp thì luôn muốn mở rộng sản xuất nhưng
không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ năng lực về tài chính,vì thế trong một
nền kinh tế phát triển mạnh mẽ như nước ta hiện nay,việc sử dụng đòn bẩy kinh
tế sẽ làm tăng hiệu quả của việc sử dụng vốn.
Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay thì công tác thẩm
định tài chính dự án vẫn còn là khá mới mẻ.Mặc dù những năm gần đây,công tác
này đã được quan tâm hơn trước rất nhiều nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
của thực tế.
Là một sinh viên được đào tạo theo chuyên ngành Ngân hàng-Tài
chính,em nhận thấy việc nghiên cứu công tác thẩm định tài chính dự án trong cho
vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng được
yêu cầu của nền kinh tế.Chính vì vậy,sau một thời gian thực tập tại chi nhánh
ngân hàng Công Thương Thanh Xuân,em đã tìm hiểu về công tác thẩm định tài
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A

loại,tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính.Tuy
nhiên,một loịa ngân hàng hiện đang có số lượng lớn nhất và có vị trí vô cùng
quan trọng, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển của nền kinh tế đó là ngân hàng
thương mại. Để có thể hiểu về ngân hàng thương mại,ta xem xét một số khái
niệm :
• Theo luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng của Việt Nam
“Ngân hàng là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính
chất và mục tiêu hoạt động,các loại ngân hình ngân hàng gồm ngân hàng thương
mại,ngân hàng phát triển,ngân hàng đầu tư,ngân hàng chính sách,ngân hàng hợp
tác và loại hình ngân hàng khác.”
• Theo các nhà kinh tế học hiện đại :
“Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp”nhưng là một doanh nghiệp đặc
biệt vì chu trình của nó là T-T (T’=T+Δt) nghĩa là tiền “đẻ” ra tiền thay vì chu
trình của một doanh nghiệp thông thường là T-H-T’”.
“Ngân hàng thương mại là các rổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng,tiết kiệm,dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế”
1.1.2.Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại :
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
3
Theo điều 49 luật các tổ chức tín dụng, “tổ chức tín dụng được cấp tín dụng
cho các tổ chức,cá nhân dưới các hình thức : cho vay,chiết khấu thương phiếu và
giấy tờ có giá khác,bảo lãnh,cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy
định của ngân hàng nhà nước”.Như vậy,ta thấy hoạt động tín dụng bao gồm rất
nhiều nghiệp vụ, đây chính là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập chính cho mỗi
ngân hàng.Nhưng nó cũng có tính rủi ro rất cao,rủi ro có thể xuất phát từ nhiều
phía như: ngân hàng,khách hàng,môi trường khách quan…Và như ta biết, rủi ro
trong hoạt động ngân hàng có hậu quả rất lớn,nhẹ thì có thể gây tổn thất cho

Như ta đã biết, đối với mỗi doanh nghiệp thì nhu cầu đầu tư là một hoạt động
diễn ra thường xuyên,nó góp phần nâng cao năng suất lao động hay mở rộng sản
xuất,nhằm làm gia tăng giá trị vốn chủ sở hữu.Tuy nhiên,trên thực tế không phải
bất cứ khi nào doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư đều sẵn vốn để thực hiện,một
trong các nguồn mà doanh nghiệp thường xuyên sử dụng và khá quen thuộc đó là
nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại.Khi các doanh nghiệp đến vay
vốn,ngân hàng thương mại thường yêu cầu các doanh nghiệp phải xây dựng các
dự án,thể hiện mục đích,kế hoạch đầu tư và tiến trình thực hiện cụ thể. Đồng thời
các ngân hàng cũng phải thẩm định dự án mà doanh nghiệp đưa ra nhằm xác
minh và khẳng định tính hiệu quả của dự án.Quá trình này ngày càng được các
ngân hàng chuẩn hóa và xây dựng thành các phương pháp,quy trình cụ thể. Điều
này vừa đảm bảo tính khoa học trong công tác thẩm định vừa tránh được các sai
sót do yếu tố chủ quan gây nên,làm ảnh hưởng đến tính an toàn của nguồn vốn
cho vay.
1.2. Cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân Hàng thương mại
1.2.1. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
1.2.1.1. Khái niệm
Trong nền kinh tế hiện đại,khi nói đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nói
đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của doanh
nghiệp.Việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) phụ thuộc vào tiêu
thức sử dụng quy định giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp.Có
thể hiểu DNVVN theo nghĩa như sau:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách
pháp nhân vì mục đích lợi nhuận có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
5
nhất định theo các tiêu thức vốn,lao động,doanh thu,giá trị gia tăng thu được
trong những thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.
Như vậy,có thể nhận thấy một số tiêu thức chung,phổ biến nhất thường
xuyên được sử dụng để phân loại các doanh nghiệp đó là:

phù hợp đường lối,chính sách,chiến lược và khả năng hỗ trợ của mỗi quốc
gia.Những tiêu thức phân loại DNVVN được dùng làm căn cứ thiết lập những
chính sách phát triển,hỗ trợ DNVVN của các Chính phủ.
Từ những phân tích khìa niệm chung về DNVVN,các tiêu thức và giới hạn
tiêu chuẩn,tiêu thức được sử dụng trong phân loại DNVVN trên thế giới,kết hợp
với điều kiện cụ thể,những đặc điểm riêng biệt về quan điểm phát triển kinh tế
nhiều thành phần và các chính sách,quy định phát triển kinh tế của nước ta.Chúng
ta có thể nêu ra khái niệm như sau :
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất-kinh doanh
có tư cách pháp nhân,không phân biệt thành phần kinh tế,có quy định về vốn
hoặc lao động thoả mãn các quy định của Chính Phủ đối với từng nghành nghề
tương ứng với từng thời ký phát triển của nền kinh tế.
Theo nghị định 90 ngày 23/11/2001 : “ Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở
sản xuất,kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành,có
vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hang năm không
quá 300 người. “ (Căn cứ vào tình hình kinh tế-xã hội cụ thể của nghành, địa
phương,trong quá trình thực hiện các biện pháp chương trình trợ giúp có thể linh
hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu
nói trên )
1. 2.1.2. Các đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Hiện nay ở nước ta,các DNVVNchiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp hiện
có trên cả nước.Các DNVVN đang hoạt động trong môi trường kinh tế chưa hoàn
toàn thuận lợi cả tầm vĩ mô và vi mô.Các doanh nghiệp chủ yếu gặp phải khó
khăn về công nghệ sản xuất kinh doanh,mô hình quản lý,tiến độ, kỹ năng của đội
ngũ lãnh đạo và tay nghề của người lao động,phương thức tiếp thị sản phẩm, đặc
biệt là sự hạn chế về tiếp cận thông tin và dịch vụ tài chính,vốn đầu tư….Có thể
nhận thấy rất rõ đặc điểm chủ yếu của các DNVVN ở Việt Nam như sau :
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
7
Thứ nhất, năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất,kinh doanh và quản

dàng chuyển hướng kinh doanh mới có lợi.Tuy nhiên,nhìn dưới giác độ khác,tính
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
8
chất “đa dạng,phong phú” lại trở thành “ nhỏ lẻ manh mún”.Có những doanh
nghiệp mà danh mục các hoạt động đăng ký kinh doanh gồm đến hàng chục
khoản mục từ xuất nhập khẩu,cung cấp dịch vụ thiết kế,tư vấn,…nên tính chuyên
nghiệp không cao.Không ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có định hướng
lâu dài trong hoạt động kinh doanh mà hoạt động chạy theo thương vụ,thường
xuyên thay đổi cơ cấu mặt hàng,sản phẩm,dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp
nhiều về chủng loại nhưng không lớn về số lượng.
1.2.2. Cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân Hàng thương mại
.
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của một Ngân hàng
thương mại,nó tạo ra thu nhập từ lãi lớn nhất song cũng là hoạt động mạng lại
nhiều rủi ro nhất.Tín dụng thực chất là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách
hàng, đặc biệt là đối với các DNVVN.
Với một doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn là điều mà bất cứ một doanh nghiệp
nào cũng đặc biệt quan tâm,bởi lẽ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng sản
xuất,duy trì và phát triển doanh nghiệp. Để có được một nguồn vốn lớn,doanh
nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là đi vay từ các tổ chức tín dụng. Đối với một ngân
hàng thương mại,thì việc cho vay đối với các DNVVN là một vấn đề hết sức
quan trọng,vì đó là nguồn thu nhập chủ yếu của ngân hàng và đó cũng sẽ tiềm ẩn
rất nhiều rủi ro đối với ngân hàng.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các DNVVN là
hoạt động diễn ra thường xuyên.Hiện nay,số lượng DNVVN là rất lớn,nhu cầu
vay vốn của các doanh nghiệp cũng rất lớn.Do đó,nếu ngân hàng có thể huy động
vốn,cho vay thì có thể đem lại một khoản thu nhập không nhỏ cho ngân hàng.Các
doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay hoạt động rất đa dạng,trên nhiều phương diện,
đòi hỏi có một số lượng vốn lớn và khó có thể tự huy động được,vì thế việc đi
vay từ ngân hàng là điều cần thíêt đối với họ để có thể mở rộng sản xuất,quy mô

1.3.2. Sự cần thiết về thẩm đinh tài chính dự án trong cho vay đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại.
Đối với bất kì một ngân hàng thương mại nào thì việc cho vay theo dự án là
hoạt động truyền thống có khả năng sinh lợi cao nhưng nó cũng chứa đựng nhiều
rủi ro.Vì thế, để hạn chế tới mức tối đa các rủi ro có thể xảy ra,các ngân hàng
thương mại phải tiến hành thẩm định dự án mà trong đó quan trọng nấht là thẩm
định tài chính dự án. Đây là căn cứ mang tính quyết định giúp cho ngân hàng đưa
ra quyết định của mình.Thẩm định tài chính dự án hết sức quan trọng đối với
ngân hàng thương mại bởi những lý do chính như sau:
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
10
- Thẩm định tài chính dự án là cơ sở để các ngân hàng thương mại xác
định hiệu quả vốn đầu tư,khả năng hoàn vốn của dự án và khả năng trả nợ của
nhà đầu tư.Trên cơ sở đó,ngân hàng có thể đưa ra quyết định tài trợ cho dự án ở
mức độ nào như : giá trị khoản vay,thời hạn,lãi suất cho vay,hình thức thu nợ,các
biện pháp bảo đảm tiền vay cũng như các phương án khác nhằm hạn chế rủi ro.
- Thẩm định tài chính dự án là căn cứ để ngân hàng có biện pháp kiểm tra
việc sử dụng vốn có đúng mục đích , đúng đối tượng hay không,góp phần để dự
án thực hiện có hiệu quả.
- Thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng lường trước các rủi ro có thể
xảy ra ảnh hưởng đến quá trình triển khai,thực hiện dự án như các yếu tố về công
nghệ,sự biến động của thị trường nguyên liệu đầu vào,sản phẩm đầu ra,sự thay
đổi về công suất sản xuất,doanh số bán hàng,chi phí sản xuất,các yếu tố về môi
trường,chính sách quản lý…Từ đó,ngân hàng phải xem xét các yếu tố nhằm đưa
ra các giải pháp đối với chủ đầu tư,các kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà
Nước,hạn chế các rủi ro và nâng cao tính khả thi trong việc thực hiện dự án
- Đối với các dự án phụ thuộc,thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng
có thể đưa ra các quyết định quan trọng như : chấp nhận cho vay với dự án nào
thì có hiệu quả hơn.
Nhìn tổng thể,thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng tích luỹ được

sản xuất đầu tiên thì cần phải có các tài sản lưu động ban đầu. Chi phí để tạo ra
tài sản lưu động ban đầu này gọi là vốn lưu động, là một bộ phận của tổng vốn
đầu tư khi dự toán.
Thẩm định tổng vốn đầu tư của dự án cần được tiến hành trên cơ sở các
thông tin về thị trường, ngành và các dự án tương tự đã biết.
1.3.3.2. Thẩm định nguồn tài trợ của dự án.
Một dự án có thể được tài trợ bằng nhiều nguồn khác nhau. Ngân hàng cần
thẩm định tính khả thi của từng nguồn vốn đó để làm căn cứ xác định mức cho
vay của ngân hàng
Số tiền cho
vay
=
Tổng vốn đầu tư của
dự án
-
Các nguồn tài trợ cho
dự án
Trong đó, các nguồn tài trợ cho dự án có thể bao gồm:
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
12
- Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp: được lấy từ phần khấu hao, lợi nhuận để
lại, quỹ thặng dư… mà khách hàng có thể dùng để tài trợ cho dự án. Ngân hàng
cần phải kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, từ đó xác định phần nguồn vốn chủ sở hữu trên thực tế có thể tham gia
tài trợ dự án của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn ngân sách cấp: một số dự án được nhà nước cấp vốn để triển
khai và doanh nghiệp chỉ được dùng số vốn này để thực hiện dự án. Khi đó, ngân
hàng cần xem xét bảo đảm của cấp có thẩm quyền đối với nguồn vốn ngân sách.
- Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác: Một số dự án có nhu cầu vay
vốn lớn đòi hỏi sự đồng tài trợ của nhiều ngân hàng. Trong trường hợp đó ngân

- Chi phí cố định gồm chi phí bảo dưỡng máy móc, thiết bị, khấu hao máy
móc thiết bị, lãi vay…thường được tính theo phần trăm trên doanh thu
- Chi phí biến đổi gồm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, lương… được
tính toán dựa trên sản lượng sản xuất và định mức tiêu hao.
Vì doanh thu và chi phí ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh, mà
doanh thu lại phụ thuộc vào giá bán, trong khi giá bán phải dựa trên cơ sở chi phí
thực tế và giá của các sản phẩm thay thế. Như vậy một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp, chi phí đều ảnh hưởng đến doanh thu và kết quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy
ngân hàng cần thẩm định tính chính xác và hợp lý của các yếu tố chi phí như
khách hàng đã đưa đủ chi phí vào giá thành chưa? Các mức tiêu hao nguyên vật
liệu, nhiên liệu của dự án có hợp lý không (nên so sánh với các dự án còn lại), tỷ
lệ trích khấu hao vào giá thành hợp lý không?
1.3.3.4. Thẩm định dòng tiền của dự án
Dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản thu, chi được kỳ vọng xuất
hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Chênh lệch
giữa các khoản thu chi này tạo ra dòng tiền ròng của dự án tại từng thời điểm.
Thẩm định dòng tiền của dự án là việc ngân hàng xác định dòng tiền của dự
án được phát sinh tại các thời điểm khác nhau để làm cơ sở đánh giá khả năng trả
nợ của khách hàng, xây dựng kế hoạch trả nợ hợp lý và tính toán các chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả tài chính của dự án.
Thẩm định dòng tiền của dự án cần chú ý một số điểm sau:
Một là, phải xem xét đến giá trị thời gian của tiền. Vì tiền có giá trị thời gian
nên chúng ta không thể so sánh dòng tiền phát sinh ở các thời điểm khác nhau với
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
14
nhau mà phải quy chúng về cùng một mốc thời gian để so sánh bằng cách sử
dụng lãi suất chiết khấu.
Hai là, cần phân biệt dòng tiền thực và dòng lợi nhuận kế toán. Dòng lợi
nhuận kế toán được xác định dựa trên thu nhập và chi phí được chấp nhận, còn
dòng tiền của dự án xác định trên cơ sở thu nhập và chi phí có thật bằng tiền. Ví

nhiều trường hợp việc chấp nhận thực hiện dự án mới có thể gây ra tác động phụ
kể cả tốt và xấu đối với luồng tiền của doanh nghiệp. Tác động này cần được tính
vào luồng tiền của dự án.
- Vốn lưu động ròng: là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng
nợ ngắn hạn hoặc là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với tài sản
cố định. Thông thường, một dự án yêu cầu phải đầu tư vào vốn lưu động ròng
bên cạnh đầu tư vào tài sản cố định. Để dự án đi vào hoạt động thường cần một
lượng vốn lưu động ban đầu như tiền để đáp ứng nhu cầu chi trả, hàng tồn kho
ban đầu cần thiết để bắt đầu sản xuất…Tuy nhiên nhu cầu này được tài trợ bởi
các khoản nợ ngắn hạn, do vậy doanh nghiệp chỉ cần đầu tư vào phần vốn lưu
động ròng. Đặc tính của tài sản lưu động ròng là nó không được khấu hao và
được thu hồi khi dự án kết thúc. Trong tính toán dự án, đầu tư vào vốn lưu động
ròng được coi là đầu tư ban đầu, và được thu hồi khi dự án kết thúc. Vốn lưu
động ròng được đưa vào dòng tiền của dự án.
- Phân bổ chi phí quản trị chung: chi phí quản trị chung là những chi phí hoạt
động không liên quan trực tiếp tới bất kỳ sản phẩm hay dịch vụ cụ thể nào như
chi phí quản lý, chi phí hành chính, văn phòng,…Sự chênh lệch của những chi
phí này trước và sau thời điểm có dự án mới nên được tính vào dòng tiền.
Một cách tổng quát, dòng tiền của dự án được cấu thành bởi ba bộ phận sau:
dòng chi phí đầu tư, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền thu hồi sau đầu
tư.
- Dòng chi phí đầu tư gồm: chi phí mua tài sản cố định; chi phí lắp đặt, vận
chuyển, chạy thử; chi phí dự phòng và đầu tư vào vốn lưu động ròng (nếu có).
Dòng chi phí đầu tư được gọi là dòng tiền ra của dự án (COF).
- Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh:
= LNST +KH
= DT – CF - THUẾ
= ( DT – chi phí không kể khấu hao)*(1-T) + KH*T
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
16

tới việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Các dự án khách hàng
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
17
trình lên ngân hàng có lãi suất chiết khấu thường là lãi suất cho vay trung dài hạn
của ngân hàng hoặc lãi suất huy động trung dài hạn của ngân hàng cộng với phần
chênh lệch nhất định. Dựa trên những đánh giá về khả năng sinh lời và mức rủi
ro của dự án, ngân hàng tiến hành điều chỉnh lại tỷ lệ này trên góc độ của ngân
hàng.
1.3.3.6. Thẩm định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án là những căn cứ rất quan
trọng để các cán bộ thẩm định đưa ra các quyết định đối với việc thực hiện dự án.
Để Phân tích và đánh giá hiệu quả tài chính dự án các cán bộ thẩm định thường
sử dụng các chỉ tiêu : Giá trị hiện tại ròng NPV;tỷ suât hoàn vốn nội bộ IRR;chỉ
số doanh lợi PI;thời gian hoàn vốn PP.Theo các cán bộ thẩm định thì một dự án
được coi là khả thi và có hiệu quả khi các chỉ tiêu tài chính đảm bảo ít nhất là đạt
được mức tối thiểu có thể chấp nhận được.
1.3.3.6.1.. Giá trị hiện tại ròng NPV
• Khái niệm.
NPV-giá trị hiện tại ròng là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các
dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được
hiện tại hoá ở mốc 0. Đây là chỉ tiêu đựơc sử dụng phổ biến nhất trong thẩm định
dự án.
• Ý nghĩa.
NPV phản ánh giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư.NPV có thể mang giá trị
dương, âm hoặc bằng không.NPV>0 có nghĩa là việc thực hiện dự án sẽ tạo ra giá
trị tăng thêm cho chủ đầu tư tức tính sinh lợi của sự đầu tư lớn hơn tỷ lệ chiết
khấu.Do đó ột dự án với NPV dương có thể coi là chấp nhận được.NPV=0,tính
sinh lợi tương đương với tỷ lệ chiết khấu.Nếu NPV<0 thì dự án không đủ bù đắp
vốn đầu tư, đem lại thua lỗ cho chủ đầu tư và điều đó có nghĩa là tính sinh lợi của
dự án nhỏ hơn tỷ lệ chiết khấu,dự án cần phải được hủy bỏ.

NPV có một lợi thế như một phương tiện phân biệt so sánh với thời gian
thu hồi vốn đầu tư và tỉ suất lợi nhuận hàng năm vì nó tính đến toàn bộ thời gian
của dự án và thời điểm các dòng tiền của dự án.Nhược điểm của NPV là sự khó
khăn trong việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu thích hợp và NPV không chỉ ra tính sinh
lợi chính xác của dự án.Mặt khác,trên thực tế việc sử dụng tiêu chuẩn NPV để
đưa ra quyết định đầu tư có thể không hoàn toàn đúng như lý thuyết.Một dự án
cso NPV dương nhưng NPV quá nhỏ so vơi tổng vốn đầu tư thì việc quyết định
tài trợ cho dự án cũng như cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng.Tiêu chuẩn
NPV tỏ ra bất lợi khi so sánh những dự án có vốn đầu tư khác nhau hay thời gian
khác nhau.Do vậy, để thẩm định hiệu quả tài chính dự án cần thiết phải nghiên
cứu thêm các chỉ tiêu khác.
1.3.3.6.2. Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR).
• Khái niệm
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là trường hợp đặc biệt của lãi suất chiết khấu mà
ở đó NPV=0.Hay nói cách khác đó là tỷ lệ chiết khấu mà ở đó giá trị hiện tại của
dòng tiền vào tương đương với giá trị hiện tại của dòng tiền ra.
• Ý nghĩa
IRR phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án,dựa trên giả định dòng tiền thu
được qua các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng IRR.
• Cách xác định
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
19
Phương pháp hay dùng để tính IRR là thử và điều chỉnh.Lần lượt thử các
giá trị của lãi suất chiết khấu làm cho NPV=0,chọn lãi suất chiết khấu nào cho
giá trị của NPV gần 0 nhất thì đó chính là IRR.
Ngoài ra phương pháp nội suy cũng được dùng để tính IRR.Phương pháp
này được tính dựa trên tam giác đồng dạng.Chọn 2 giá trị của lãi suất chiết khấu
sao cho một giá trị cho NPV>0 và một giá trị cho NPV<0. IRR chính là giá trị
nằm giữa 2 giá trị vừa chọn làm cho NPV=0.Công thức xác định IRR như sau :
IRR =

IRR phản ánh giá trị hoàn vốn của dự án, dựa trên giả định các dòng tiền
thu được trong các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu. Tuy
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
20
nhiên, giả định này là không thuyết phục vì lãi suất chiết khấu sẽ thay đổi trong
các năm thể hiện chi phí cơ hội của chủ đầu tư trong từng năm thay đổi. Để khắc
phục nhược điểm này, ngân hàng sử dụng kết hợp với chỉ tiêu MIRR.
MIRR là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại của chi phí dự án tương
đương với giá trị hiện tại của giá trị cuối cùng của dự án. Giá trị cuối cùng là
tổng giá trị tương lai của những luồng tiền vào theo lãi suất chiết khấu ( chi phí
của vốn)
1.3.3.6.4.Chỉ số doanh lợi (PI)
• Khái niệm
Chỉ số doanh lợi PI là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi của dự án,tính
bằng tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai chia cho vốn đầu tư
ban đầu.PI cho biết một đồng vốn bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập.Thu
nhập này chưa tính đến chi phí vốn đầu tư đã bỏ ra.
• Cách xác định
PI =
( )
0
1
1
CF
k
CF
n
t
t
t

Chỉ tiêu PP có ý nghĩa trong thẩm định tài chính dự án nhưng nó phải được
sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu khác chứ khó có thể sử dụng một cách độc lập
để đưa ra quyết định đầu tư.
1.3.3.6.6. Chỉ tiêu cân đối lợi ích – chi phí (B/C)
Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ
ra tính về thời điểm hiện tại hoặc tương lai.
Về bản chất chỉ tiêu này có ý nghĩa tương tự NPV khi đánh giá một dự án
vì NPV >0 thì B/C >1, NPV = 0 thì B/C = 1 và NPV < 0 thì B/C <1.Tuy nhiên vì
là số tương đối nên chỉ tiêu này tuy không phản ánh được quy mô giá trị tăng
thêm của dự án nhưng lại có thể so sánh được các dự án có thời hạn khác nhau
hay vốn đầu tư khác nhau. Vì B/C khắc phục được nhược điểm của NPV nên nó
thường được sử dụng bổ trợ cho chỉ tiêu NPV khi phải so sánh nhiều dự án có
thời hạn và vốn đầu tư khác nhau. B/C không ảnh hưởng nhiều đến các quyết
định tài trợ của ngân hàng.
1.3.3.6.7. Chỉ tiêu lợi nhuận kế toán bình quân ( APP)
Là lợi nhuận kế toán thuần tuý bình quân trong các năm của dự án.
APP cho biết khả năng tạo ra lợi nhuận kế toán bình quân trong từng năm
thực hiện dự án. Do vậy APP càng cao thì dự án càng mang lại nhiều thu nhập
cho chủ đầu tư. Tuy nhiên APP không xem xét đến giá trị thời gian của tiền do
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
22
vậy nó không phản ánh chính xác khả năng sinh lời của dự án. Do đó APP cũng
thường được sử dụng kết hợp với NPV như một chỉ tiêu bổ trợ.
1.3.3.6.8. Điểm hoà vốn ( BP)
Điểm hoà vốn là mức sản lượng mà tại đó nhà đầu tư thu hồi đủ vốn đầu tư
Nếu PP phản ánh thời gian thu hồi đủ vốn thì BP cho biết phải sản xuất và
tiêu thụ bao nhiêu đơn vị sản phẩm để thu hồi đủ vốn dựa trên chi phí biến đổi,
chi phí cố định và giá bán sản phẩm.
BP góp phần giúp ngân hàng đánh giá về khả năng hoàn vốn của dự án. BP
không quan tâm đến khả năng tiêu thụ sản phẩm sau khi thu hồi đủ vốn đầu tư,

- Chất lượng của báo cáo thẩm định
- Chất lượng các quyết định cho vay
- Việc cung cấp những tư vấn cho khách hàng
1.4.2.1. Thời gian thẩm định
Để thẩm định một dự án trước hết cần thu thập thông tin, phân tích, đánh giá
và tổng hợp các thông tin đó nhằm đưa ra kết luận chính xác về tính khả thi của
dự án. Để thực hiện được những công việc trên đòi hỏi phải có một khoảng thời
gian nhất định. Trong điều kịên cạnh tranh gay gắt như hiện nay, chi phí cơ hội
của dự án là rất lớn, thời gian đối với chủ đầu tư là vàng là bạc, các khách hàng
khi đến với ngân hàng luôn mong muốn được ngân hàng trả lời sớm nhất dù cho
vay hay không cho vay. Vì vậy yêu cầu đặt ra cho các ngân hàng là cần phải tổ
chức thẩm định và thiết lập hệ thống công nghệ hỗ trợ phù hợp sao cho thời gian
thẩm định phải đủ để tổ chức khâu thẩm định được kỹ càng nhưng không được
quá dài sẽ làm mất cơ hội đầu tư của khách hàng. Có như vậy mới đảm bảo cơ
hội đầu tư cho cả ngân hàng và khách hàng.
1.4.2.2. Chi phí thẩm định
Chi phí thẩm định bao gồm tất cả các chi phí cần thiết mà ngân hàng phải chi
trả cho việc tiến hành thẩm định dự án.Hơn nữa trong cùng một thời gian, ngân
hàng phải trả lời cho vay hay không cho vay đối với nhiều dự án khác nhau vì
vậy chi phí thẩm định của ngân hàng còn bao gồm cả chi phí cơ hội đối với việc
xem xét cho vay dự án khác cùng thời điểm.
Thu nhập của ngân hàng từ dự án là tiền lãi vay và các khoản phí dịch vụ
cung ứng.
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
24
Là một doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, vì vậy khi tiến hành
thẩm định tài chính dự án ngân hàng cần phải so sánh thu nhập và chi phí thẩm
định dự án. Trường hợp chi phí thẩm định mà quá lớn so với thu nhập nhận được
từ dự án thì ngân hàng vẫn có thể từ chối cho vay dù dự án hiệu quá.
1.4.2.3. Chất lượng báo cáo thẩm định


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status