luận văn đại học sư phạm Xây dựng hệ thống bài tập chủ đề Phân số cho học sinh lớp 4, theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. - Pdf 26

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước đòi hỏi nhà
trường cần phải đào tạo ra những con người lao động tự chủ, năng động,
sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề. Một yếu tố quan trọng góp phần
đáp ứng yêu cầu nói trên là nhà trường phải tiến hành đổi mới phương pháp
dạy học nhằm "phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo
của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực
hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên".
ĐÓ thực hiện nhiệm vụ này cần tổ chức hợp lý quá trình học tập của
học sinh, kích thích nhu cầu, động cơ và hứng thú học tập của học sinh.;
giúp học sinh có khát vọng, niềm tin để nắm vững và hoàn thiện tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo.
Hệ thống bài tập có vai trò quan trọng, cho phép tổ chức hợp lý quá
trình học tập, là công cụ phát huy nhu cầu, động cơ, hứng thú và hoạt động
học tập độc lập, sáng tạo của học sinh.
Mục tiêu của môn toán ở tiểu học là nhằm giúp học sinh có những
kiến thức cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số và số thập
phân. "Phân số" không chỉ đóng vai trò quan trọng trong mạch kiến thức số
học, mà nó còn giữ vai trò quan trọng trong đời sống thực tiễn. Phân số
được giới thiệu cho học sinh làm quen bắt đầu từ lớp 2 và được đưa vào
dạy hoàn chỉnh từ lớp 4.
Hệ thống bài tập về chủ đề: “Phân số” được kết cấu trong sách giáo
khoa, nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng về phân số và các phép tính với
phân sè. Tuy nhiên cần xem xét hệ thống bài tập về “Phân số” nh một công
cụ góp phần tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh.
Trong thực tế, nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến mục tiêu cung cấp
kiến thức, mà chưa chó ý phát huy được tính tích cực trong hoạt động học
1
tập của học sinh. Việc sử dụng hệ thống bài tập trong quá trình dạy học của
giáo viên còn lúng túng, chưa phát huy được tính tích cực, tự giác và sáng

số " ở lớp 4, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn toán.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các tài liệu có liên
quan đến phương pháp dạy học toán ở tiểu học. Nghiên cứu sách giáo khoa,
sách bài tập và các tài liệu khác.
Phương pháp điều tra: Điều tra, phỏng vấn, dự giờ, quan sát.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp thống kê toán học: Thu thập, xử lý, đánh giá số liệu
Phương pháp thử nghiệm sư phạm: Sử dụng hệ thống bài tập để dạy
thử một số tiết, để kiểm chứng các lập luận đề xuất trong đề tài.
7. Đóng góp của luận văn
Xác định cách xây dùng hệ thống bài tập chủ đề "Phân sè" cho học
sinh líp 4, theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh và
hướng dẫn giáo viên cách sử dụng hệ thống bài tập trong quá trình dạy học
môn toán ở lớp 4.
Thiết kế một số giáo án minh hoạ
8. Cấu trúc của luận văn
Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2 : Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập chủ đề "Phân số "
cho học sinh líp 4, theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh.
Chương 3 : Thử nghiệm sư phạm

3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Hoạt động
Theo A.N. Leonchep: một hoạt động bao giờ cũng nhằm vào đối
tượng nhất định. Hai hoạt động khác nhau được phân biệt bởi hai đối tượng
khác nhau".Hoạt động gắn liền với động cơ và mục đích. Không thể có hoạt

hợp lý nhất.
+) Giai đoạn thực hiện
+) Giai đoạn kiểm tra kết quả, sửa chữa sai lầm và đánh giá.
Theo tâm lý học dạy- học hiện đại: Hoạt động học tích cực được đặc
trưng bởi nhu cầu, hứng thú và tính tự giác chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng
chuyển biến thái độ. Đối tượng của hoạt động học là tri thức mà người học
cần. Trên cơ sở đó hình thành kỹ năng, hành vi, thái độ đúng đắn. Mục tiêu
mà hoạt động học hướng tới là chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo để hình
thành nhân cách. Do đó, việc học không thể thực hiện được nếu học sinh
chỉ học tập một cách thụ động, máy móc, mà họ phải tích cực bằng chính ý
thức tự giác, bằng năng lực, trí tuệ của bản thân.
Về khía cạnh tâm lý nhận thức, hoạt động học là hoạt động được
điều khiển một cách có ý thức, nhằm tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
hướng tới làm thay đổi chính bản thân người học. Nội dung của tri thức
thường không mới đối với nhân loại, nhưng khi chủ thể chiếm lĩnh được,
thì nhờ sự chiếm lĩnh này, tâm lý của chủ thể đã thay đổi và phát triển. Sự
tiếp thu này có tính tích cực cao sẽ hình thành được phương pháp tự học
cho học sinh. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng giúp các em biết tự học suốt
đời. Muốn cho việc tự học đạt kết quả cao, người học phải biết cách học,
5
người dạy phải ý thức được những tri thức cần được hình thành, những kỹ
năng, kỹ xảo cần được phát triển ở học sinh.
1.1.3. Tính tích cực
Theo từ điển Tiếng Việt, tích cực là một trạng thái tinh thần có tác
dụng khẳng định và thúc đẩy sự phát triển.
Theo I.F. Kharlamop: "Tính tích cực trong hoạt động nhận thức là
trạng thái hoạt động của học sinh, được đặc trưng bởi khát vọng học tập, sự
cố gắng trí tuệ với nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức cho
chính mình".
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã

Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập, sáng tạo sẽ phát triển tự
giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập [2, tr. 13, 14].
Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: Hăng hái trả lời
các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý
kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn
kẽ những vấn đề chưa rõ; chủ động vận dụng kiến thức kỹ năng đã học để
nhận thức vấn đề mới; tập chung chó ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn
thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn. {2, tr.14}
G.L.Sukina chia tính tích cực ra làm ba cấp độ:
1. Tính tích cực bắt chước, tái hiện: Tính tích cực chủ yếu dựa vào trí
nhớ và tư duy tái hiện.
2. Tính tích cực tìm tòi: Được đặc trưng bằng sự bình phẩm, phê
phán, tìm tòi tích cực về mặt nhận thức, óc sáng kiến, lòng khao khát hiểu
biết, hứng thú học tập. Tính tích cực đó không bị hạn chế trong khuôn khổ
những yêu cầu của giáo viên trong giờ học.
3. Tính tích cực sáng tạo: Là mức độ cao nhất của tính tích cực. Nó
đặc trưng bằng sự khẳng định con đường riêng của mình, không giống với
con đường mà mọi người đã thừa nhận, đã trở thành chuẩn hoá, để đạt được
mục đích.
7
Dùa theo các cấp độ của tính tích cực, giáo viên có thể đánh giá được
mức độ tích cực của học sinh. Tuy nhiên, cũng còn hết sức khái quát, muốn
cụ thể và sát thực, giáo viên còn phải căn cứ vào một loạt các chỉ số khác
như: Kết quả học tập sau một tiết, một chương, một phần; thời gian duy trì
sự chú ý trong một giờ học; năng lực giải bài tập, khả năng đưa ra những
cách giải độc đáo
Từ đó có thể nói tÝch cực hoá hoạt động học tập là quá trình làm
cho người học trở thành chủ thể tích cực trong hoạt động học tập của chính
họ.
1.2. Những căn cứ để xây dựng hệ thống bài tập chủ đề "Phân sè" cho

+) Có những hiểu biết ban đầu, sơ giản về dùng chữ thay số, về biểu
thức toán học, về phương trình và bất phương trình đơn giản nhất bằng
phương pháp phù hợp với tiểu học.
+) Biết cách giải và trình bày bài giải với các bài toán có lời văn.
Nắm chắc, thực hiện đúng quy trình giải toán. Bước đầu biết giải các bài
toán bằng các cách khác nhau.
+) Thông qua các hoạt động học tập toán, để phát triển đúng mức
một số khả năng trí tuệ và thao tác tư duy quan trọng nhất như: So sánh,
phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá, cụ thể hoá, lập luận có
căn cứ, bước đầu làm quen với các chứng minh đơn giản.
+) Hình thành tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế
hoạch có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý chí vượt
khó khăn, cẩn thận, kiên trì tự tin. {1, tr.21}
1.2.2. Nội dung dạy học chủ đề "Phân sè" ở líp 4
1.2.2.1. Mục tiêu
Dạy học chủ đề "Phân số" ở líp 4 nhằm giúp học sinh:
+ Có những tri thức ban đầu về cách nhận biết phân số, biết đọc và
viết phân số; tính chất cơ bản của phân số; biết cách rút gọn phân số và tìm
9
ra phân số tối giản; biết cách quy đồng mẫu số các phân số và so sánh các
phân số cùng mẫu số hoặc khác mẫu số.
+ Hình thành kỹ năng thực hành 4 phép tính với phân số và giải
những bài tập có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống.
+ Bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng trừu tượng hoá,
khái quát hoá, kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập, hình thành
năng lực làm việc chủ động, linh hoạt, sáng tạo của học sinh.
1.2.2.2. Nội dung
Chủ đề "Phân số" trong môn toán ở lớp 4 có những nội dung sau:
a) Phân số
+ Khái niệm phân số

vào thực tế, đều có tác dụng quán triệt tư tưởng của toán học hiện đại và
phù hợp với quá trình lĩnh hội tri thức về chủ đề "Phân số" của học sinh tiểu
học.
Hệ thống bài tập chủ đề "Phân số" của các tài liệu đang được sử
dụng trong quá trình học tập hiện nay đã giúp học sinh ôn tập, củng cố nội
dung kiến thức đã học; nó là phương tiện cơ bản để giúp các em rèn luyện
kỹ năng, kỹ xảo và vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế cuộc
sống. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra thực tế (bằng cách phỏng vấn một
số giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở lớp 4). Chúng tôi nhận thấy rằng:
+ Hệ thống bài tập cần phải tạo điều kiện cho thầy trò tổ chức những
hoạt động tích cực, tăng thêm loại bài tập nhằm phát triển trí thông minh cho
học sinh.
Ví dô:
+ Một số bài tập chưa phù hợp với quá trình phát triển tư duy của học
sinh.
Ví dô:
11
+ Các nội dung trong hệ thống bài tập đưa ra chưa cân đối, có nội dung
đưa ra số lượng bài tập quá nhiều hoặc quá Ýt.
Ví dô:
+ Các bài tập đưa ra chủ yếu nhằm mục đích cung cấp kiến thức và rèn
luyện kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh; chưa thực sự chú ý đến các bài tập phát
huy tính tích cực của học sinh.
Ví dô:
Chính vì vậy, trong nội dung dạy học chủ đề "Phân số" cần đưa ra một
hệ thống bài tập mới để tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh.
1.2.3. Nhận thức hiện đại vÒ quá trình dạy học
Theo nghiên cứu của các nhà giáo dục học, thì quá trình dạy học có
những tính chất sau:
+ Trước hết quá trình dạy học, phải xem như là một quá trình nhận

dưới nhiều hình thức khác nhau: nghe lời giảng giải của giáo viên, trả lời
câu hỏi, trao đổi thảo luận, đọc sách giáo khoa, Nhưng hoạt động cơ bản
nhất, chủ đạo nhất vẫn là giảt bài tập toán. Vì vậy, bài tập toán có vị trí và
chức năng quan trọng trong quá trình dạy học bộ môn toán.
a) Vị trí :
Bài tập toán có vị trí quan trọng, nó là phương tiện rất có hiệu quả,
để giúp học sinh nắm vững tri thức, phát triển tư duy, hình thành kỹ năng,
kỹ xảo và ứng dụng toán học vào thực tiễn. Hoạt động giải bài tập toán học
là điều kiện để thực hiện tốt các mục tiêu dạy học toán.
b) Chức năng:
Trong thực tiễn dạy học, bài tập toán học được sử dụng với những
dụng ý khác nhau. Mỗi bài tập có thể dùng để tạo điều kiện xuất phát, để
gợi động cơ học tập, để vận dụng kiến thức vào thực tiễn, hoặc để ôn tập,
kiểm tra kiến thức của học sinh Tuy nhiên, mỗi bài tập toán cụ thể, được
đưa ra ở một thời điểm nào đó, trong quá trình dạy học đều chứa đựng một
13
cách tường minh hay hàm Èn những chức năng khác nhau. Những chức
năng này, đều hướng đến việc thực hiện các mục đích dạy học.
Bài tập toán học có những chức năng sau:
+ Chức năng dạy học: Hình thành củng cố cho học sinh những tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo khác nhau của quá trình dạy học.
+ Chức năng giáo dục: Nhằm hình thành cho học sinh thế giới quan
duy vật biện chứng, tạo hứng thú học tập, niềm tin vào chân lý và giáo dục
phẩm chất đạo đức của người lao động.
+ Chức năng phát triển: Phát triển năng lực tư duy của học sinh, đặc
biệt là rèn luyện những thao tác trí tuệ, hình thành khả năng tư duy khoa
học.
+ Chức năng kiểm tra: Đánh giá kết quả quá trình dạy- học của giáo
viên và học sinh. Đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức và trình độ phát
triển tư duy của học sinh.

học ở 5 trường tiểu học. Số phiếu thu lại là 100 phiếu. Những số liệu thu
được trong phiếu điều tra được chúng tôi xử lý và thống kê bằng phương
pháp toán học, trên cơ sở đó khái quát được thực trạng. Ngoài ra, chúng tôi
còn sử dụng phương pháp quan sát, phương pháp đàm thoại để hỗ trợ cho
phương pháp điều tra này.
1.4.2. Kết quả điều tra
Dựa vào các phương pháp điều tra nêu trên, chúng tôi đã thu được kết
quả nghiên cứu thực trạng hiểu biết của giáo viên về tính tích cực của học
sinh trong học tập.
* Trong câu hỏi 1, có 53 % số giáo viên nhận thức đúng về tầm quan
trọng của những dấu hiệu biểu hiện tính tích cực của học sinh trong học tập,
họ cho rằng: Việc học sinh hay nêu thắc mắc, đặt ra những câu hỏi trước
những tình huống có vấn đề là dấu hiệu rất quan trọng của tính tích cực.
Có 15% giáo viên lại cho rằng: " Đi học chuyên cần, làm bài đầy đủ" là
dấu hiệu rất quan trọng của tính tích cực. Thực ra họ chưa hiểu rõ về tính tích
15
cực của học sinh, việc đi học chuyên cần, làm bài đầy đủ chỉ là ý thức học tập
của học sinh, chứ không phải là dấu hiệu rất quan trọng về tính tích cực học
tập của học sinh.
* Trong câu hỏi 2, có 62% số giáo viên có nhận thức đúng, họ hoàn
toàn đồng ý với ý kiến cho rằng: "Nhu cầu tìm tòi sẽ giúp học sinh học tập
tích cực". Có 24% giáo viên đồng ý với ý kiến cho rằng: "Nội dung phương
pháp dạy học toán hiện nay không đáp ứng đúng nhu cầu học tập của học
sinh". Qua trao đổi với một số giáo viên, chúng tôi mới biết rằng họ chưa biết
cách vận dụng phối hợp các phương pháp dạy học vào các nội dung dạy học
toán hiện nay.
* Trong câu hỏi 3, có 27% giáo viên đồng ý với ý kiến cho rằng: "Hệ
thống bài tập trong sách giáo khoa chưa thực sự tạo ra được động cơ học tập
cho học sinh". Khi trao đổi với chúng tôi một số giáo viên có ý kiến cho rằng:
"Chương trình và sách giáo khoa cần phải giảm bớt khối lượng kiến thức nhồi

Thông qua trao đổi chúng tôi được biết một số giáo viên vẫn chưa nhận ra
được hiệu quả của việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập.
Có 71% giáo viên không đồng ý với ý kiến cho rằng: "Đây là vấn đề
mới cần được tích cực thực hiện". Nh vậy, hầu hết giáo viên đã được tiếp
xúc và làm quen với vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh trong học
tập. Có 53% giáo viên đồng ý với ý kiến cho rằng: "Vấn đề này đặt ra đã
lâu, không có gì mới". Qua kết quả điều tra, chúng tôi nhận thấy hầu hết
giáo viên đều quan tâm và có thái độ hợp lý đối với vấn đề phát huy tính
tích cực của học sinh.
Kết quả điều tra cho thấy: Hầu hết giáo viên đều có nhận thức đúng
về tính tích cực của học sinh trong học tập và đã biết cách vận dụng nó vào
quá trình giảng dạy. Tuy nhiên, hiệu quả của việc vận dụng là chưa cao,
nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc sử dụng hệ thống bài tập. Đây
cũng là căn cứ để chúng tôi tiến hành áp dụng những kết quả nghiên cứu
vào thực nghiệm.
17
CHƯƠNG 2.
XÂY DÙNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP CHỦ ĐỀ:
"PHÂN SÈ", THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH.
2.1. Yêu cầu của việc xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập theo hướng
tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh.
2.1.1. Cơ sở phân loại của hệ thống bài tập trong dạy học môn toán
Hệ thống được hiểu nh là một tập hợp các yếu tố liên kết với nhau
bằng những quan hệ đa dạng và tạo nên một thể thống nhất, toàn vẹn.
Vì vậy, hệ thống bài tập được hiểu nh là một tập hợp các bài tập có
liên quan mật thiết với nhau và cùng đáp ứng một mục tiêu dạy học nhất
định. Ở đây, chúng ta xem xét một hệ thống bài tập mở, nghĩa là một hệ
thống mà chúng ta có thể bổ xung mở rộng thêm các loại bài tập thành
phần. Ngoài ra, cũng cần nhấn mạnh rằng hệ thống bài tập phải xây dựng

khái quát và hệ thống hoá kiến thức đó, nhằm phát triển tư duy logic cho
các em.
c) Loại câu hỏi, bài tập dùng để kiểm tra đánh giá
19
Loại câu hỏi, bài tập này dùng để kiểm tra đánh giá khả năng lĩnh hội
kiến thức của học sinh có thể sau một bài học, một chương hoặc một phần
của chương trình. Giáo viên cần sử dụng bài tập vừa sức với học sinh, phải
phù hợp với thời gian quy định làm bài và kiểm tra được những kiến thức
trọng tâm, những nội dung kiến thức khác của chương trình.
2.2.1.2. Dựa vào nội dung dạy học
Dựa vào nội dung dạy học có thể phân chia thành các loại bài tập
sau: bài tập số học; bài tập về đại lượng và đo đại lượng; bài tập về hình
học và bài tập về giải toán có lời văn,
2.2.1.3. Dựa vào mức độ tích cực của học sinh trong hoạt động học tập
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu của luận văn, chúng tôi quan tâm
đến việc phân chia dạng loại các bài tập tương thích với các dạng cơ bản
trong hoạt động học tập của học sinh.
Theo Pitcaxixtưi hoạt động học tập được chia thành 3 dạng cơ bản:
hoạt động tái hiện; hoạt động tái tạo và hoạt động sáng tạo:
+ Hoạt động tái hiện: Là hoạt động học sinh dùng trí nhớ và tư duy
tái hiện để nhớ lại nội dung kiến thức đã học.
+ Hoạt động tái tạo: Là hoạt động mà học sinh tiến hành nhiều hoạt
động thành phần để giải quyết các tình huống khác nhau trong bài.
+ Hoạt động sáng tạo: Là hoạt động chủ động, sáng tạo của học sinh
để giải quyết vấn đề khái quát hơn bằng sự suy nghĩ sáng tạo của học sinh.
Muốn phát huy tính tích cực học tập của học sinh thì cần tổ chức,
khuyến khích các hoạt động tái tạo và sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên,
không thể xem nhẹ việc cung cấp cho học sinh một vốn tri thức, kỹ năng cơ
bản, đủ để thực hiện các hoạt động tái tạo và sáng tạo. Nghĩa là không thể
xem nhẹ hoạt động tái hiện. Mọi hoạt động khác đều không thể thực hiện

6

15
24
; b)
3
5

21
35
; c)
8
12

2
3
;
21
d)
3
3

90
90
; e)
9
27

1
3

2.1.2.1. Yêu cầu 1:
Hệ thống bài tập cần góp phần ôn tập, tái hiện và chuẩn bị một cách
tích cực vốn tri thức cho học sinh khi học kiến thức mới. Việc sử dụng hệ
22
01
0
1
5
2
5
1

thống bài tập một cách hiệu quả nhất sẽ cho phép xác định động cơ, gây
hứng thú, hình thành nhu cầu và tính tích cực nhận thức cho học sinh.
Nhưng nhu cầu nhận thức chỉ xuất hiện khi học sinh có vốn tri thức,
khả năng tối thiểu để có thể giải quyết được nhiệm vụ đặt ra (với sự nỗ lực
trí tuệ của học sinh). Vì vậy, vốn tri thức tối thiểu cần thiết là rất quan trọng
trong quá trình học tập. Trong giảng dạy người giáo viên cần xác định xem
trướcc khi học kiến thức mới học sinh đã có vốn tri thức kỹ năng đến đâu,
đã hiểu và nhận biết được những tri thức nào phục vụ cho việc giải quyết
nhiệm vụ sắp tới. Mỗi tri thức mới bao giờ cũng được hình thành dựa trên
một tập hợp các tri thức đã biết. Trên cơ sở đó xác định các câu hỏi và bài
tập nhằm gợi mở, bổ trợ cho học sinh chuẩn bị lĩnh hội các tri thức mới.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với học sinh yếu kém, hoặc đối với những
học sinh còn thiếu tính vững chắc trong kiến thức đã thu nhận được.
Vì vậy, yêu cầu đầu tiên đối với hệ thống bài tập là trước khi học về
kiến thức mới cần có những câu hỏi và bài tập giúp học sinh ôn tập, củng

cũng như có các biến đổi khác nhau trong cách phát triển bài toán. Đặc biệt
do đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học. Các bài tập tuy có cùng bản
chất trong cách giải quyết vấn đề hay kỹ năng tính toán (cùng bản chất của
một hiện tượng) nhưng thay đổi lối diễn đạt, hình thức trình bày cũng sẽ
khơi gợi được trí tò mò, kích thích hứng thú khả năng tìm tòi và ham thích
học tập của học sinh.
Chẳng hạn: Cùng một bản chất là áp dụng tính chất cơ bản của phân
số, có thể ra các dạng bài tập nh sau:
Ví dô 1: Số thích hợp để viết vào ô trống của
124
3
=
là:
A. 4 B. 36 C. 48 C. 9
Ví dô 2: Trong các nhóm phân số dưới đây, nhóm nào có chứa hai
phân số bằng nhau?
a)
6
5

24
15
b)
5
3

35
21
c)
12

phù hợp với trình độ của từng đối tượng học sinh cũng như phù hợp với
từng hoàn cảnh, tình huống dạy học cụ thể.
Ngoài ra phải thấy rằng các bài tập này cùng một bản chất (hoặc cùng
kiểu dạng) còn cho phép hình thành ở học sinh thuật giải một lớp các bài
toán như vậy. Việc hình thành kỹ năng giải (thuật giải) một lớp bài toán là
rất quan trọng đối với học sinh tiểu học (bậc học của kỹ năng), mà điều này
được hình thành từ những gì được ôn tập, lặp đi, lặp lại đối với học sinh.
2.1.2.3. Yêu cầu 3:
25










H1 H2
H3
H4

Trích đoạn Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập chủ đề "Phân số" theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh Khái niệm phân số Phân số bằng nhau Đối tượng thử nghiệm Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status