Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các trường trung học phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Ninh Bình - Pdf 26

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH, HĐH với mục tiêu đến
năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp, theo hướng hiện
đại hội nhập với cộng đồng quốc tế. Nhân tố quyết định thắng lợi của công
cuộc CNH, HĐH và hội nhập quốc tế là con người, là nguồn nhân lực Việt
Nam được phát triển cả về số lượng, chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí
được nâng cao. Vì vậy, phải chăm lo đến nguồn lực con người, chuẩn bị lực
lượng lao động có những phẩm chất và năng lực đáp ứng đòi hỏi của đất nước.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ CNH, HĐH trong những năm qua chi NSNN
cho hoạt động giáo dục giáo dục nói chung, các trường THPT công lập ở Ninh
Bình nói riêng đã không ngừng tăng lên góp phần quan trọng vào quá trình
phát triển giáo dục của Ninh Bình. Tuy nhiên trong khi nền kinh tế đất nước ta
đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN được hơn 20 năm thì cơ
chế tài chính của giáo dục thực tế vẫn chưa có sự thay đổi về chất so với thời
kỳ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục
THPT công lập chưa gắn chặt với các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo: đội
ngũ giáo viên, điều kiện cơ sở vật chất…, chưa làm rõ trách nhiệm chia sẻ chi
phí đào tạo giữa nhà nước và người học; việc xây dựng định mức chi và phân
bổ ngân sách cho giáo dục chủ yếu dựa trên kinh nghiệm; chế độ học phí được
thực hiện từ năm 1998 đến nay vẫn chưa thay đổi; Cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài chính trong các cơ sở giáo dục công
lập nhìn chung còn hạn chế về tác dụng. Với nguồn ngân sách cấp hàng năm
còn hạn hẹp và mức thu học phí rất thấp và cố định nhiều năm, các trường
không thể tiết kiệm để thu nhập tăng thêm cho giáo viên và tăng cường cơ sở
vật chất nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
1
Xuất phát từ những yêu cầu, trên tác giả chọn vấn đề: “Hoàn thiện cơ
chế quản lý tài chính đối với các trường trung học phổ thông công lập trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ kinh tế.

tiễn, luận văn đã có những đóng góp sau:
- Luận văn hệ thống hóa và phát triển những vấn đề lý luận về giáo dục
trung học phổ thông công lập, các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục trung
học phổ thông công lập và cơ chế quản lý tài chính đối với các trường trung
học phổ thông công lập.
- Luận văn phân tích, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng các
trường trung học phổ thông công lập cũng như nguồn tài chính đầu tư cho các
trường trung học phổ thông công lập và cơ chế quản lý tài chính đối với các
trường trung học phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong thời
gian qua; xác định những thành tựu đã đạt được cũng như nguyên nhân của
những yếu kém còn tồn tại.
- Trên cơ sở xác định những định hướng và quan điểm về phát triển các
trường trung học phổ thông công lập của cả nước nói chung và tỉnh Ninh Bình
nói riêng, luận văn đi sâu phân tích, đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới và
nâng cao chất lượng cơ chế quản lý tài chính các trường trung học phổ thông
công lập Ninh Bình trong thời gian tới.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được trình bày thành 3 chương:
3
Chương 1: Giáo dục trung học phổ thông công lập và cơ chế quản lý tài
chính đối với các trường trung học phổ thông công lập.
Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với các trường trung
học phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các
trường trung học phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
4
Chương 1
GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP VÀ CƠ CHẾ
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ

lực. Chất lượng nguồn nhân lực sẽ quyết định năng lực cạnh tranh, tăng trưởng
và phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì thế, phát
triển nguồn nhân lực có chất lượng luôn được coi là vấn đề ưu tiên trong chiến
lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nguồn nhân lực.
Theo các chuyên gia của UNDP, các nhân tố đó là: giáo dục – đào tạo; sức
khỏe và dinh dưỡng; môi trường; việc làm; và sự giải phóng con người. Năm
nhân tố trên có khả năng tạo ra những giá trị cho sự phát triển nguồn nhân lực,
chúng gắn bó với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó, giáo dục – đào tạo là
cơ sở của các nhân tố khác. Bởi lẽ, giáo dục là điều kiện thiết yếu để cải thiện
sức khỏe và dinh dưỡng, để duy trì một môi trường có chất lượng cao, để mở
rộng, cải thiện lao động và để duy trì sự đáp ứng về kinh tế - chính trị nhằm
giải phóng con người. Vì lẽ đó, giáo dục được xem như là nền tảng cho sự
phát triển nguồn nhân lực, là điều kiện không thể thiếu nhằm hình thành nguồn
vốn con người có chất lượng.
Giáo dục còn thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua việc nâng cao trình
độ và khả năng thành thạo của người lao động, tức là góp phần tăng năng suất
lao động. Mức độ ảnh hưởng của giáo dục đối với năng suất lao động được
tính bằng cách so sánh sự khác biệt giữa sản phẩm của một cá nhân làm ra
trong cùng một đơn vị thời gian trước và sau khi cá nhân đó trải qua một khóa
6
đào tạo với chi phí của khóa đào tạo đó. Kết quả này được gọi là tỷ suất lợi
nhuận xã hội đầu tư cho giáo dục vào khoảng 8-10%, cao hơn so với tỷ suất
lợi nhuận trung bình của xã hội đầu tư cho các lĩnh vực khác xét về dài hạn.
Giáo dục còn được coi là nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững. Khác
với vốn vật chất, vốn con người khi được sử dụng sẽ tích lũy ngày càng nhiều
kinh nghiệm, tri thức. Vì thế, giáo dục không ngừng làm tăng giá trị và có
đóng góp ngày càng lớn hơn đối với sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia.
Thứ hai, giáo dục góp phần xóa đói giảm nghèo
Nghèo, đói là vấn đề lớn của cả nhân loại, đặc biệt đối với các nước

được cũng cao hơn so với lao động phổ thông.
Thứ tư, giáo dục góp phần tạo lập sự công bằng trong xã hội.
Bên cạnh xóa đói, giảm nghèo, giáo dục còn góp phần tạo lập một xã hội
công bằng hơn. Giáo dục mang lại các kỹ năng, kiến thức và quan điểm nhận
thức xã hội, đó chính là những nhân tố quyết định nâng cao khả năng tham gia
vào thị trường lao động của lực lượng lao động nghèo. Công bằng trong giáo
dục góp phần đem lại sự công bằng trong phân phối thu nhập. Schultz, T.W
cho rằng một xã hội có thể đầu tư vào các công dân của mình thông qua các
khoản chi tiêu cho giáo dục. Giáo dục tiểu học phổ cập không mất tiền là cách
thức chủ yếu để tái phân bổ nguồn lực có lợi cho người nghèo.
Thứ năm, giáo dục góp phần tăng sức khỏe và nâng cao chất lượng sinh
sản.
Giáo dục và y tế có mối qun hệ mật thiết với nhau. Những người được
giáo dục thường có xu hướng tiếp cận nhiều hơn và khôn ngoan hơn đến các
dịch vụ y tế. Nguyên nhân là do họ có thu nhập cao hơn, trình độ nhận thức
8
cũng như quan điểm về vai trò của y tế đối với sức khỏe nói chung là tốt hơn.
Có một thực tế lý thú rằng, tuổi thọ trung bình của người dân sống ở nước giàu
thường cao hơn nước nghèo.
Giáo dục ảnh hưởng đến mức độ sinh sản do làm tăng tuổi lập gia đình
và tăng việc sử dụng các biện pháp tránh thai. Một phụ nữ càng được giáo dục
thì càng có xu hướng ít sinh con. Bên cạnh đó, trình độ học vấn của cha mẹ,
liên quan mật thiết với tình trạng sức khỏe của trẻ em. Mức giáo dục của
người mẹ tăng lên làm giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh.
Cấu trúc của hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống giáo dục quốc dân được thiết lập nhằm thực hiện các mục tiêu
giáo dục, đáp ứng yêu cầu đào tạo con người của đất nước, tập hợp các ngành
học, bậc học, cấp học, từ nhà trẻ đến sau đại học một cách liên tục thống nhất.
Đối với Việt Nam, đó là một hệ thống 5-4-3-4, hay nói cách khác, một học
sinh phải trải qua toàn bộ hệ thống giáo dục từ lớp 1 lên đến đại học, không bỏ

động giáo dục quốc dân, tự trang trải chi phí hoạt động. Có 3 loại hình trường
gồm: Trường bán công, dân lập và tư thục.
Tất cả các loại hình nhà trường này đều chịu sự quản lý nhà nước của
các cơ quan quản lý giáo dục theo sự phân công, phân cấp của Nhà nước.
Trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân, Nhà
nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân mở trường dân lập, tư thục nhằm đáp
ứng nhu cầu học tập của xã hội. Nhà trường được thành lập khi đảm bảo các
10
điều kiện về cán bộ quản lý, giáo viên, cơ sở vật chất, và năng lực tài chính
theo quy định của Chính phủ.
1.1.2. Đặc điểm của giáo dục THPT
- Vị trí, vai trò của giáo dục THPT
Để thực hiện các mục tiêu giáo dục của mình, mỗi nước có một hệ
thống giáo dục quốc dân đặc trưng. Hệ thống giáo dục quốc dân là toàn bộ các
thiết chế GD - ĐT của một quốc gia do Nhà nước thiết lập quản lý dưới hình
thức cụ thể khác nhau và được cấu trúc theo bậc, cấp, ngành phương thức
giảng dạy và quản lý. Trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, các bậc học
được phân ngành: Giáo dục tiền học đường, giáo dục phổ thông, giáo dục
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, giáo dục đại học và sau đại học.
Giáo dục trung học phổ thông dành cho trẻ em đã hoàn thành và tốt
nghiệp THCS, ở độ tuổi 15, được thực hiện trong 3 năm từ lớp 10 đến lớp 12,
tương ứng với cấp học giáo dục phổ thông là các trường trung học phổ thông.
Theo cách hiểu chung nhất thì giáo dục trung học phổ thông là một bộ
phận cấu thành quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân, có vai trò hình
thành nhân cách cho thế hệ trẻ, trang bị những tri thức và kỹ năng phổ thông
cơ bản nhất về khoa học, văn hóa, nghệ thuật hay đi vào cuộc sống lao động
sản xuất, thực hiện nghĩa vụ công dân.
Mục tiêu giáo dục nói chung, giáo dục trung học phổ thông nói riêng
của mỗi quốc gia tùy thuộc vào quan điểm phát triển giáo dục và chế độ chính
trị của quốc gia đó. Do vậy, mỗi quốc gia có thể lựa chọn mục tiêu phát triển

Chất lượng cuộc sống được phản ánh thông qua Chỉ số phát triển con
người (HDI). Đây là một chỉ số tổng hợp, được đo lường bằng trung bình cộng
của thu nhập bình quân đầu người (chỉ tiêu kinh tế), tuổi thọ trung bình (chỉ
tiêu y tế) và tỷ lệ biết chữ (chỉ tiêu giáo dục). Giáo dục trở thành một trong ba
khía cạnh cơ bản khẳng định chất lượng cuộc sống, là căn cứ để so sánh cuộc
sống của cư dân thuộc các quốc gia và các địa phương khác nhau.
Chiến lược phát triển của mỗi quốc gia cần hướng trọng tâm vào giáo
dục, coi đây là nhân tố chính thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, ngược lại sự
phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo nâng cao cuộc sống của con người.
Như vậy, có thể nói, đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư vào con người, vì con
người và cho sự phát triển của con người.
Hai là, đầu tư giáo dục là đầu tư phát triển
Giáo dục không chỉ là mục đích mà còn là điều kiện cho sự phát triển
kinh tế - xã hội. Giáo dục được xem như là một bộ phận của cơ sở hạ tầng xã
hội, nền tảng quan trọng và điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển kinh tế
nhanh và bền vững. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
ngày càng trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh thế giới đang chuyển sang
nền kinh tế tri thức, trong đó tri thức và thông tin trở thành những yếu tố hàng
đầu và là nguồn tài nguyên vô giá cho sự phát triển.
Kinh nghiệm thực tiễn của thế giới cho thấy, những nước nghèo muốn
tăng trưởng kinh tế nhanh và rút ngắn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần
đặc biệt chú trọng nâng cao trình độ học vấn của người dân. Tổ chức UNESCO
đã rút ra nhận định với nội dung: Không có sự tiến bộ và thành đạt nào có thể
tách rời sự tiến bộ và thành đạt trong giáo dục. Quốc gia nào coi nhẹ giáo dục
hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết để làm giáo dục một cách có hiệu
quả thì tụt hậu so với sự phát triển của thế giới là điều khó tránh khỏi.
13
Nhận thức được vai trò to lớn của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội Đảng và Nhà nước ta đã sớm có quan điểm coi “Giáo dục là quốc sách
hàng đầu” và “Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan

thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong
phân phối các nguồn lực tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ
tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
Tài chính có tác dụng kìm hãm hay thúc đẩy sự phát triển của một
ngành hay một lĩnh vực. Đối với giáo dục, tài chính có vai trò quan trọng, tài
chính tác động đến quy mô, mục tiêu và chất lượng của hệ thống giáo dục.
Điều này được thể hiện cụ thể trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, nguồn lực tài chính đảm bảo duy trì hoạt động của hệ thống
giáo dục
Để duy trì hoạt động giáo dục, phải có những trang thiết bị phục vụ cho
quá trình dạy học như trường, lớp, thư viện, phòng thí nghiệm hệ thống sách
giáo khoa, giáo trình…phải trả lương cho đội ngũ giáo viên và các nhà quản lý
giáo dục. Chiến lược phát triển giáo dục của mỗi quốc gia trong những thời kỳ
nhất định phải được xây dựng dựa trên cơ sở khả năng cung ứng tài chính.
Thiếu yếu tố tài chính, những đề xuất, cả tiến khó có thể thực hiện được.
Nguồn lực tài chính ảnh hưởng quan trọng và trực tiếp đến sự phát triển
giáo dục. Thông thường, những quốc gia có cơ chế, chính sách huy động được
nhiều nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục thì hệ thống giáo dục của quốc
gia đó phát triển sản phẩm giáo dục có chất lượng, đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của thị trường lao động. Ngược lại, những quốc gia có nguồn lực tài
chính không đáp ứng đủ nhu cầu của giáo dục, nền giáo dục thường lạc hậu,
15
chất lượng thấp hơn một cách tương đối do với những nước có nguồn tài chính
dồi dào. Điều này đúng cả về lý thuyết và thực tiễn. Chính vì lẽ đó, hầu hết các
quốc gia trên thế giới hiện nay ngoài việc ngày càng dành nhiều nguồn lực hơn
cho giáo dục còn tạo môi trường thuận lợi để huy động nguồn lực từ các chủ
thể khác ở trong nước cũng như ngoài nước.
Thứ hai, chính sách tài chính góp phần điều phối hoạt động giáo dục
Giáo dục được xem là một bộ phận của kết cấu hạ tầng xã hội, có ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của một quốc gia. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư

hội quan tâm. Những biểu hiện sai lệch trong đầu tư phát triển giáo dục để lại
hậu quả nghiêm trọng về kinh tế - xã hội mà công tác khắc phục tiêu tốn nhiều
thời gian và tiền của. Kiểm tra, giám sát tài chính, với những đặc tính ưu việt
của nó, giúp các cơ sở giáo dục đề xuất những giải pháp tình huống, cũng như
chiến lược nhằm sử dụng các nguồn lực đầu tư phát triển giáo dục một cách
hợp lý, vì sự tiến bộ của con người và sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
* Các nguồn vốn đầu tư phát triển giáo dục
Muốn cho giáo dục phát triển thì cần phải được đầu tư thích đáng, đầu tư
càng nhiều thì giáo dục càng có điều kiện thuận lợi phát triển. Ngược lại, nếu
đầu tư ít, lại sử dụng không hợp lý, dẫn đến giáo dục chậm phát triển, ảnh
hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế và như vậy tiếp tục sự nghèo nàn lạc hậu.
Đây chính là cái vòng kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Sự chuyển đổi nền kinh tế đã làm thay đổi một cách căn bản quan điểm
đầu tư cho giáo dục. Đầu tư cho giáo dục không chỉ là một nguồn gần như là
duy nhất là ngân sách nhà nước như trước đây, mà một xã hội học tập, nhất
17
thiết đầu tư cho giáo dục phải bao gồm tổng thể nhiều nguồn khác nhau như
Luật giáo dục (2005) đã khẳng định:
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư giáo
dục, khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước
ngoài đầu tư cho giáo dục. NSNN phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn
lực đầu tư cho giáo dục.
Với quan điểm trên, nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục trong giai đoạn
hiện nay bao gồm:
- Nguồn ngân sách nhà nước
Giáo dục luôn là yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc gia. Do đó hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đặt giáo dục ở vị trí
hàng đầu trong các ưu tiên, phát triển kinh tế xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã
coi giáo dục là quốc sách hàng đầu; vì vậy việc đầu tư cho giáo dục cũng được

- Học phí, lệ phí tuyển sinh, tiền đóng góp xây dựng trường: là khoản tiền
đóng góp của gia đình hoặc bản thân học sinh để cùng với Nhà nước đảm bảo các
hoạt động giáo dục. Nguồn thu này ngày càng trở thành nguồn tài chính quan
trọng đóng góp cho sự phát triển của giáo dục nhưng đồng thời cũng là một rào
cản đối với người nghèo đến với giáo dục. Vì vậy, việc xóa bỏ thu học phí ở giáo
dục tiểu học và trung học cơ sở đang là mục tiêu của các nước.
- Nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học, tư vấn và kinh doanh
dịch vụ. Công tác nghiên cứu khoa học, tư vấn và kinh doanh dịch vụ tập trung
chủ yếu trong các cơ sở đào tạo, hiện chiếm 3% - 4% tổng số kinh phí nghiên
cứu khoa học của cả nước. Đây là một tỷ lệ rất thấp. Các sản phẩm nghiên cứu
19
lại không được tiếp thị nên nhiều đề tài rất có ý nghĩa đối với cuộc sống nhưng
không được áp dụng. Cơ chế đầu tư cho nghiên cứu khoa học nói chung còn bị
phân tán, hiệu quả thấp, chậm đổi mới.
- Nguồn đầu tư đóng góp tài trợ của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài
nước. Để tăng cường nguồn đầu tư cho phát triển giáo dục; thực hiện đa dạng
hóa các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy
động và tạo điều kiện để các tổ chức, các nhân tham gia phát triển sự nghiệp
giáo dục cần thiết phải tranh thủ nguồn tài chính vay với lãi suất ưu đãi cho
giáo dục từ Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á, các tổ chức
quốc tế và các nước.
1.2. CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP
1.2.1. Khái niệm, vai trò của cơ chế quản lý tài chính đối với các
trường THPT công lập.
- Khái niệm
Cơ chế là thuật ngữ chỉ phương thức tồn tại và hoạt động của một hệ
thống, trong đó có sự tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành của hệ
thống, nhờ đó mà hệ thống có thể tồn tại, vận hành và phát triển.
Cơ chế quản lý được hiểu là hệ thống các hình thức, phương pháp, biện

cơ chế quản lý tài chính đó là hợp lực của các hình thức, phương pháp, biện
pháp có tác động cùng chiều, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực
trong quá trình thực hiện giáo dục và đào tạo, thúc đẩy nền giáo dục Quốc dân
21
phát triển cả về quy mô, cả về chất lượng và hiệu quả. Theo hướng tiêu cực có
nghĩa là cơ chế quản lý đó là hợp lực của các hình thức, phương pháp, biện
pháp có tác động ngược chiều nhau, cản trở lẫn nhau và nảy sinh các mặt tiêu
cực trong quá trình thực hiện các hoạt động đào tạo, kìm hãm sự phát triển của
nền giáo dục Quốc dân.
- Vai trò của cơ chế quản lý tài chính đối với các trường THPT công lập:
+ Cơ chế quản lý tài chính có vai trò cân đối giữa việc tạo lập, phân
phối, và sử dụng các nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu phát triển nền giáo
dục quốc dân nói chung và các trường THPT công lập nói riêng. Khơi dậy và
huy động các nguồn tài chính trong xã hội, NSNN và ngoài NSNN đầu tư vào
phát triển giáo dục, trong đó có các trường THPT công lập. Do đó các trường
chủ động thu hút, khai thác, tạo lập nguồn vốn NSNN và ngoài NSNN, sử
dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính đầu tư cho nhà trường.
+ Cơ chế quản lý tài chính tác động đến quá trình chi tiêu ngân quỹ
quốc gia, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ của đơn
vị vì vậy các trường THPT công lập chịu sự quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám
sát tài chính của cơ quan chủ quản cấp trên, cơ quan tài chính trong quá trình
tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn tài chính của các trường THPT công
lập, phải đảm bảo tuân thủ theo quy định của Nhà nước và điều chỉnh, ngăn
chặn các sai phạm, lành mạnh hóa và nâng cao hiệu quả các hoạt động tài
chính của các trường THPT công lập.
+ Phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường THPT
công lập trong việc tạo lập, quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính đầu tư từ
NSNN và ngoài NSNN cho các trường THPT công lập một cách tiết kiệm và
hiệu quả cao, lành mạnh hóa các hoạt động tài chính đảm bảo các nguồn kinh
phí được đầu tư được sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả cao, ngăn

không mang tính bồi hoàn trực tiếp. Việc phân bổ NSNN cho các trường
THPT công lập dựa trên cơ sở Nhà nước giao ổn định trong thời gian 3 năm,
mức tăng hàng năm do Thủ tướng chính phủ quyết định. Ngoài ra căn cứ vào
các chương trình mục tiêu, nhiệm vụ khác mà Nhà nước giao ngân sách.
- Đối với chi đầu tư phát triển
Là các khoản chi được quản lý theo quy định của vốn đầu tư xây dựng
cơ bản: chi đầu tư cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc phục
vụ trực tiếp cho giảng dạy và học tập.
+ Đối với nguồn ngoài NSNN cấp:
Cơ chế quản lý tài chính gọi là “mềm” được áp dụng để huy động và sử
dụng nguồn lực tài chính ngoài NSNN cấp. Gọi là cơ chế quản lý tài chính
“mềm” có phần mang ý nghĩa thị trường hơn, linh hoạt hơn không hoàn toàn
chịu sự chi phối trực tiếp bởi những quy định của Nhà nước như cơ chế tài
chính áp dụng cho nguồn tài chính được ngân sách cấp. Với cơ chế quản lý tài
chính mềm thì vai trò của thủ trưởng, các tổ chức công đoàn, và hội đồng nhà
trường có ý nghĩa quyết định. Đây là một loại cơ chế quản lý trong các trường
THPT công lập mà tính tự chủ tự chịu trách nhiệm của Hiệu trưởng rất cao.
1.2.3.2. Cơ chế chi
Cơ chế quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính được hình thành thông qua
hoạt động tạo nguồn. Hoạt động quản lý, sử dụng nguồn tài chính trong các
trường THPT công lập có tác động đến toàn bộ hoạt động của nhà trường theo
hai chiều thuận nghịch khác nhau, điều đó tùy thuộc vào công tác tổ chức các
hoạt động tài chính trong các trường THPT công lập, hay nói một cách khác là
tùy thuộc vào cơ chế quản lý tài chính trong các trường THPT công lập. Tùy
24
thuộc vào đặc điểm của các nguồn tài chính trong các trường THPT công lập
mà có thể hình thành các loại cơ chế quản lý tài chính khác nhau sao cho việc
tạo lập và quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính trong các trường THPT công
lập phù hợp với đặc điểm của từng nguồn tài chính, phù hợp với hoạt động của
nhà trường đảm bảo việc sử dụng nguồn lực tiết kiệm và đạt hiệu quả cao.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status